Quan hệ hữu nghị vĩ đại Việt Nam - Lào - Tình đoàn kết, gắn bó đặc biệt trong sứ mệnh và con đường phát triển chung
TCCS - Quan hệ Việt Nam - Lào là quan hệ hữu nghị vĩ đại được xây dựng, vun đắp và phát triển bởi các thế hệ lãnh đạo và nhân dân hai nước, là tài sản quý giá của hai dân tộc. Trong giai đoạn mới với bối cảnh quan hệ quốc tế phức tạp và lợi ích đan xen, dựa trên những nét tương đồng về tư tưởng, mục tiêu và lợi ích, quan hệ Việt Nam - Lào vẫn luôn được đề cao, duy trì và phát triển bền vững trong cả hiện tại và tương lai.
Sự tương đồng về hệ tư tưởng
Phát huy và kế thừa truyền thống của Liên minh Việt Nam - Lào trong kháng chiến chống thực dân Pháp và chống đế quốc Mỹ xâm lược, được kế tục trong thời kỳ cả hai nước thực hiện nhiệm vụ khôi phục và hàn gắn vết thương chiến tranh, quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào từ sau năm 1986 tiếp tục được xây dựng, phát triển trên nền tảng cùng ý thức hệ, cùng có chung mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước theo con đường đi lên chủ nghĩa xã hội. Công cuộc xây dựng, phát triển đất nước cả ở Lào và Việt Nam đều đặt dưới sự lãnh đạo của đảng Mác-xít - Lê-nin-nít, có chung cội nguồn là Đảng Cộng sản Đông Dương. Hai Đảng, hai Nhà nước Việt Nam và Lào vẫn luôn duy trì mối quan hệ gắn bó mật thiết, luôn hết lòng tương trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước dù tình hình mỗi nước hay bối cảnh quốc tế, khu vực cũng như các mối quan hệ quốc tế của mỗi bên có nhiều thay đổi.
Lịch sử đã chứng minh, hai nước Việt Nam và Lào có chung hoàn cảnh, gần gũi về địa lý và điều kiện tự nhiên, có chung mục tiêu phấn đấu vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Sự nhất trí về quan điểm, tư tưởng, đường lối chiến lược là cơ sở xây dựng mối quan hệ đặc biệt giữa hai nước Lào và Việt Nam.
Mối quan hệ giữa hai nước được các thế hệ lãnh đạo Việt Nam và Lào dày công vun đắp. Nhận thức rõ tầm quan trọng trong quan hệ giữa hai nước Việt Nam và Lào, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến sự nghiệp cách mạng của Lào, Người cho rằng “giúp nhân dân nước bạn tức là mình tự giúp mình”(1). Do đó, khi nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa mới tuyên bố độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Hoàng thân Xu-pha-nu-vông đã thống nhất thành lập Liên quân Lào - Việt vào ngày 30-10-1945, do Hoàng thân Xu-pha-nu-vông làm Tổng chỉ huy, tổ chức xây dựng lực lượng, kháng chiến chống thực dân Pháp. Đầu năm 1946, khi cách mạng Việt Nam còn đang rất khó khăn, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cử đoàn cố vấn sang giúp Lào, phân công ông Lê Thiệu Huy(2) làm bí thư riêng, phụ tá cho Hoàng thân Xu-pha-nu-vông, Bộ trưởng Ngoại giao kiêm Tổng Tư lệnh Pa-thét Lào.
Năm 1952, tại Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Vì mọi quan hệ khăng khít về địa lý, quân sự, chính trị, v.v., mà ta với Miên, Lào cũng như môi với răng. Hai dân tộc Miên, Lào hoàn toàn giải phóng, thì cuộc giải phóng của ta mới chắc chắn hoàn toàn. Cho nên nhiệm vụ của ta lại phải ra sức giúp đỡ kháng chiến Miên, Lào một cách tích cực, thiết thực hơn. Đó là nhiệm vụ quốc tế của chúng ta”(3). Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm giúp đỡ, xây dựng và phát triển lực lượng, phát huy tinh thần tự chủ của cách mạng Lào, coi đây là một nội dung quan trọng nhất của tình đoàn kết và liên minh chiến đấu Việt - Lào(4). Ngày 13-3-1963, trong buổi chiêu đãi vua Sa-vang Vat-tha-na và đoàn đại biểu Hoàng gia Lào nhân chuyến thăm chính thức Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh nói về quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào: “Hai dân tộc Việt và Lào sống bên nhau trên cùng một dải đất, cùng có chung một dãy núi Trường Sơn. Hai dân tộc chúng ta đã nương tựa vào nhau, giúp đỡ lẫn nhau như anh em… Ngày nay, chúng ta lại đang giúp đỡ nhau để xây dựng một cuộc sống mới. Tình nghĩa láng giềng anh em Việt - Lào thật là thắm thiết không bao giờ phai nhạt được”(5).
Về phía Lào, cả Chủ tịch Xu-pha-nu-vông và Tổng Bí thư Cay-xỏn Phôm-vi-hản đều luôn dành cho Chủ tịch Hồ Chí Minh và nhân dân Việt Nam tình cảm trân quý và coi trọng quan hệ hợp tác hữu nghị giữa hai nước. Theo Chủ tịch Xu-pha-nu-vông, trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc của mình, nhân dân Lào “luôn luôn có nhân dân Việt Nam anh em ở bên cạnh, sẵn sàng giúp đỡ”(6). Trong chuyến thăm Việt Nam vào tháng 5-1971, Chủ tịch Xu-pha-nu-vông khẳng định: “Quan hệ hữu nghị anh em giữa nhân dân Lào và Việt Nam thật là vĩ đại... Tình hữu nghị và đoàn kết đặc biệt Lào - Việt Nam cao hơn núi, dài hơn sông, rộng hơn biển cả, thơm hơn bông hoa nào thơm nhất. Tình hữu nghị tốt đẹp đó được vun đắp bằng tinh thần trong sáng, không có kẻ thù nào có thể phá vỡ nổi”(7). Tại Đại hội lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam (ngày 15-12-1976), Tổng Bí thư Cay-xỏn Phôm-vi-hản đã phát biểu về quan hệ giữa hai nước: “Trong lịch sử cách mạng thế giới cũng đã có nhiều tấm gương sáng chói về tinh thần quốc tế vô sản, nhưng chưa ở đâu và chưa bao giờ có sự đoàn kết liên minh, chiến đấu đặc biệt lâu dài, toàn diện như vậy, hơn 30 năm đã qua mà vẫn trong sáng như xưa - một sự đoàn kết liên minh bền vững...” và “Mối quan hệ Lào - Việt Nam đã trở thành mối quan hệ đặc biệt trong sáng, thủy chung mẫu mực, hiếm có và ngày càng được củng cố và phát triển tươi đẹp”. Tổng Bí thư Cay-xỏn Phôm-vi-hản thay mặt cho lãnh đạo và nhân dân Lào cam kết: Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và nhân dân các dân tộc Lào rất tự hào về mối quan hệ thủy chung, son sắt Lào - Việt, “nguyện ra sức củng cố và tăng cường mối quan hệ đặc biệt đó, bảo vệ tình đoàn kết Lào - Việt như bảo vệ con ngươi của mắt mình”(8). Các thế hệ lãnh đạo mới ở Lào cũng tiếp tục coi trọng mối quan hệ của Lào với Việt Nam và khẳng định quyết tâm tăng cường mối quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện của Lào với Việt Nam. Như vậy, có thể nhận định từ khi được đặt nền móng trong quan hệ ngoại giao, quan hệ đặc biệt giữa hai nước Việt Nam - Lào đã cùng chung hệ tư tưởng trong xây dựng và phát triển đất nước, không ngừng được các thế hệ lãnh đạo hai nước đề cao, củng cố, xây dựng và vun đắp.
Sự chia sẻ mục tiêu quốc gia
Từ năm 1986, khi hai nước bước vào thời kỳ đổi mới, với mục tiêu chung là tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước trên cơ sở đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và tăng cường hội nhập quốc tế. Hai nước cùng xây dựng mô hình nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa “của dân, do dân, vì dân” dưới sự lãnh đạo của một chính đảng duy nhất.
Sự tương đồng giữa hai Đảng, hai bộ máy nhà nước và lý tưởng chung xã hội chủ nghĩa, về quan điểm tư tưởng, đường lối, chiến lược phát triển đã giúp hai nước xây dựng được Liên minh chiến đấu Việt Nam - Lào, là điều kiện quan trọng tạo nên mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào trong bối cảnh mới. Chiến lược phối hợp hiệp đồng, không vụ lợi như thế chỉ có thể sinh ra từ một đường lối chính trị có sự nhất trí cao độ về quan điểm và lợi ích chân chính. “Về mặt đường lối, mối quan hệ cùng chung một dòng máu chính trị, là tài sản quý báu nhất của hai Đảng, hai nhà nước và hai dân tộc, là một yếu tố quan trọng quyết định đến thắng lợi của cách mạng hai nước trong quá trình chiến đấu trường kỳ gian nan vất vả”(9). Như vậy, sự tương đồng về ý thức hệ cũng như mục tiêu xây dựng và phát triển đất nước của mỗi bên đang là nhân tố cơ bản tác động đến mối quan hệ đặc biệt Lào - Việt Nam.
Để có được điều đó là nhờ: 1- Cả hai nước Việt Nam và Lào đang xây dựng và phát triển đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản có cùng ý thức hệ. Những kinh nghiệm và sự hỗ trợ của Việt Nam cả về lý luận và thực tiễn là vô cùng cần thiết và quý giá đối với Lào, ngay trong công cuộc đổi mới đất nước, trong từng bước đi đều có sự trao đổi, bàn bạc nhằm tranh thủ sự giúp đỡ và kinh nghiệm của Việt Nam; Việt Nam đã cử nhiều cán bộ cấp cao sang giới thiệu kinh nghiệm lãnh đạo công cuộc đổi mới tại các hội nghị Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào(10). Việc xây dựng lực lượng cán bộ cốt cán về Đảng, chính quyền, quốc phòng - an ninh... của Lào đều có sự hỗ trợ và giúp đỡ của Việt Nam, hầu hết các thế hệ lãnh đạo chủ chốt trong hệ thống chính trị của Lào đều được gửi qua đào tạo ở Việt Nam. Vì vậy, Lào và Việt Nam dễ tìm kiếm quan điểm chung trong các chính sách, chiến lược phát triển; 2- Kể từ khi hai nước tiến hành công cuộc đổi mới, lãnh đạo hai nước đều chủ trương xây dựng mối quan hợp tác trên nguyên tắc “bình đẳng cùng có lợi, kết hợp thỏa đáng tính chất quan hệ đặc biệt với thông lệ quốc tế, ưu tiên, ưu đãi hợp lý cho nhau”. Điều này có nghĩa là, lãnh đạo hai nước đều quán triệt nguyên tắc giúp đỡ nhau trên tinh thần đồng chí, chí công vô tư, tương trợ tối đa; 3- Công cuộc đổi mới đất nước ở Việt Nam và Lào đều được tiến hành trên cơ sở những chủ trương và bằng những phương thức về cơ bản tương đồng với nhau. Đó cũng là thuận lợi cơ bản để hai nước củng cố và tăng cường quan hệ hữu nghị, đoàn kết đặc biệt trong bối cảnh mới. Nhờ sự tương đồng về thể chế chính trị - xã hội, có cùng định hướng và mục tiêu phát triển chiến lược, sự kiên định của mỗi bên trong việc gắn bó chặt chẽ với nhau về chính trị; sự tin cậy lẫn nhau, mà quan hệ giữa hai nước được triển khai đều khắp, sâu rộng trên cả ba kênh Đảng, Nhà nước và nhân dân, từ Trung ương đến các địa phương; 4- Việt Nam và Lào đều coi nhau là đối tác đặc biệt, ưu tiên cao nhất trong chính sách đối ngoại của mỗi nước; khẳng định “Lào coi trọng việc tăng cường quan hệ hữu nghị, tình đoàn kết đặc biệt truyền thống và sự hợp tác có hiệu quả với Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam”(11) và “Việt Nam luôn coi trọng và dành ưu tiên cao nhất cho mối quan hệ đặc biệt với Lào”(12). Đây là nhân tố có ý nghĩa quan trọng, cơ bản nhất và mang tính chi phối nhất trong quan hệ Việt Nam - Lào, là cơ sở để kết hợp các nhân tố, thúc đẩy quan hệ hữu nghị gắn bó, đoàn kết đặc biệt giữa hai nước trong hiện tại và tương lai.
Trên phương diện lợi ích quốc gia - dân tộc
Về mặt địa - chính trị, sau khi Chiến tranh lạnh kết thúc, Việt Nam và Lào đều đứng trước những cơ hội và thách thức lớn. Sự sụp đổ của Liên Xô và các nuớc xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu không chỉ tạo ra những khó khăn trong quan hệ đối ngoại của Việt Nam và Lào, mà còn gây ra những tác động nhất định về mặt an ninh chính trị, tư tưởng của mỗi nước. Các thế lực thù địch lợi dụng tình hình, tăng cường chống phá, chia rẽ khối đoàn kết Việt Nam - Lào, không ngừng sử dụng chiến lược “diễn biến hòa bình” để tấn công vào sự nghiệp cách mạng của mỗi nước. Nhận thức rõ an ninh của mỗi nước không tồn tại độc lập, nên cả hai nước đều chú trọng, tăng cường hợp tác chặt chẽ về quốc phòng - an ninh, bởi sự hợp tác này được xây dựng trên cơ sở truyền thống chống ngoại xâm của hai dân tộc từ ngàn xưa và sự tôn trọng độc lập chủ quyền của nhau, phát huy thế mạnh và khả năng của mỗi nước trên nguyên tắc bình đẳng, cùng có lợi.
Lịch sử đã chứng minh, hai dân tộc Việt Nam và Lào gắn kết với nhau như là quy luật tự nhiên và sự gắn kết đó có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự ổn định về chính trị và sự phát triển của mỗi nước. Yếu tố quốc phòng - an ninh ngày càng trở nên quan trọng và có tác động qua lại lẫn nhau rất rõ rệt. Hợp tác hiệu quả về quốc phòng - an ninh giữa hai nước sẽ giúp an ninh và ổn định chính trị của hai nước được bảo đảm.
Về mặt địa - kinh tế, Lào là nước nằm sâu trong nội địa, không có biển, do đó rất cần các cửa ngõ thông thương ra thế giới. Trong thập niên 70, 80 của thế kỷ XX, Lào chỉ có thể chính thức giao thương với các nước xã hội chủ nghĩa thông qua cảng Đà Nẵng của Việt Nam, đó cũng là một trong những lý do khiến Việt Nam trở nên vô cùng quan trọng đối với Lào. Sang thời kỳ đổi mới, con đường thông thương của Lào được mở rộng hơn qua các cảng biển khác của Việt Nam, như: Cửa Lò, Vũng Áng, Đà Nẵng... do khoảng cách từ Viêng Chăn đến các cảng của Việt Nam tương đối gần, tạo điều kiện cho hàng hóa của Lào thông thương ra thế giới được dễ dàng hơn. Có thể nói, với hệ thống “đường xương cá” và hệ thống cảng biển thuận lợi, Việt Nam là cầu nối quan trọng để Lào mở rộng sản xuất, thu hút đầu tư, lưu thông hàng hóa... với các nước trong khu vực và thế giới.
Với chính sách mở cửa thị trường, con đường thông thương của Lào qua Thái Lan đã được mở ra. Tuy nhiên, với vị trí địa chiến lược quan trọng của Việt Nam ở Biển Đông, các cảng biển của Việt Nam đóng vai trò quan trọng đối với phát triển kinh tế của Lào. Trước hết, không chỉ bởi khoảng cách di chuyển ngắn hơn nhiều so với qua Thái Lan mà còn do những thuận lợi phía Việt Nam dành cho Lào. Miền Trung Việt Nam có thể nói là cửa ngõ ra biển của Lào và Bắc Thái Lan. Vì vậy, sự hiện diện của Thái Lan trong cửa ngõ thông thương ra biển đối với Lào cũng không làm giảm mạnh tầm quan trọng của các cảng biển Việt Nam. So sánh khoảng cách từ cảng Cửa Lò tới Viêng Chăn là 397km, trong khi từ cảng Băng Cốc tới Viêng Chăn là 642km; từ cảng Vũng Áng tới Viêng Chăn tương đương với khoảng cách từ cảng Băng Cốc tới Viêng Chăn; từ cảng Đà Nẵng tới Sa-vẳn-na-khệt khoảng 485km; từ cửa khẩu Đen-sa-vẳn - Lao Bảo tới Đà Nẵng 249km. Đồng thời, với việc hai Chính phủ Việt Nam - Lào đầu tư và khai thác cảng Vũng Áng (Việt Nam góp 80% vốn đầu tư, Lào góp 20%) đã tạo lợi thế cạnh tranh cho các cảng biển Việt Nam so với Thái Lan. Đây cũng là lý do khiến nhu cầu khai thác vị trí địa chiến lược của Việt Nam đối với Lào ngày càng trở nên cần thiết. Với Việt Nam, trong bối cảnh đẩy mạnh công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế, Lào như là cầu nối đi sang các nước ASEAN khác, tiêu biểu như Hành lang kinh tế Đông - Tây nối Việt Nam qua Lào, Thái Lan sang Myanmar.
Đối với Việt Nam, vị trí địa - chính trị của Lào có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ biên giới, ngăn chặn những tác động xấu trực tiếp từ phía Tây vào Việt Nam. Thực tế, trong những thập niên cuối thế kỷ XX, một số hoạt động chống phá của các thế lực bên ngoài đã lợi dụng địa hình rừng núi làm căn cứ hoạt động và bàn đạp nhằm thâm nhập chống phá Việt Nam. Lào cũng là một nước nằm ở hạ lưu sông Mê Công và việc xây các đập nước của các nước trên dòng Mê Công đã và đang đặt Việt Nam vào tình thế phải gánh chịu những tác động nặng nề về môi trường, ảnh hưởng tiêu cực đến phát triển kinh tế - xã hội, đặc biệt là tác động trực tiếp đến sinh kế của hàng chục triệu người dân sống tại đồng bằng sông Cửu Long, làm mất dần sản lượng cá, canh tác lúa và mất đất ra biển(13). Vì vậy, vị trí địa - chính trị của Lào trên dòng sông Mê Công đã và đang khiến nhu cầu mong muốn hợp tác chặt chẽ Việt Nam - Lào ngày càng trở nên cấp thiết hơn bao giờ hết.
Như vậy, sự ổn định trong hòa bình và phát triển của Lào và việc củng cố mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào trên các lĩnh vực trở thành một trong những yếu tố cấu thành lợi ích quan trọng, chính đáng của Việt Nam. An ninh và ổn định của Lào có ảnh hưởng trực tiếp tới an ninh, ổn định và phát triển của Việt Nam do vị trí địa - chính trị của Lào có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc bảo vệ biên giới, ngăn chặn những tác động xấu trực tiếp từ phía tây vào Việt Nam. Sự ổn định an ninh của Lào là điều kiện quan trọng bảo đảm an ninh của Việt Nam và ngược lại. Do vậy, việc tăng cường hợp tác quốc phòng - an ninh luôn là vấn đề sống còn của cả hai quốc gia Việt Nam - Lào.
Có thể thấy, việc tăng cường phát triển quan hệ đặc biệt giữa hai quốc gia giúp Việt Nam và Lào bảo vệ được những lợi ích quốc gia của mình. Những sự tương đồng và lợi ích quốc gia của mỗi nước rõ ràng có tác động tích cực đến quan hệ Việt Nam - Lào, vừa xuất phát từ ý muốn chủ quan (hệ tư tưởng và đường lối của đảng cầm quyền), vừa từ thực tế khách quan do sự phát triển của mỗi nước đòi hỏi./.
-------------------
(1) Xem: Ban Tuyên giáo Trung ương: Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào (1930 - 2017), Tài liệu tuyên truyền Kỷ niệm 75 năm Ngày Thiết lập quan hệ ngoại giao (1962 - 2017) và 40 năm Ngày ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác Việt Nam - Lào (1977 - 2017), Hà Nội, 2017, tr. 17
(2) Tháng 3-1946, Lê Thiệu Huy đã hy sinh khi lấy thân mình bảo vệ Hoàng thân Xu-pha-nu-vông; tháng 8-2011, ông được truy phong Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân (Xem: Duy Tuấn: “Truy tặng Anh hùng cho “thần đồng Đông Dương””, Báo điện tử Vietnamnet, ngày 17-8-2011, https://vietnamnet.vn/truy-tang-anh-hung-cho-than-dong-dong-duong-35690.html )
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. 7, tr. 385
(4) Nguyễn Tất Giáp - Đinh Xuân Tươi: “Hồ Chí Minh đặt nền móng xây dựng và phá triển quan hệ đoàn kết đặc biệt Việt Nam - Lào”, Tạp chí Lý luận Chính trị và Truyền thông, số 2, 2018, tr. 5
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 14, tr. 48
(6) Nguyễn Xuân Thắng: Một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường quan hệ hữu nghị đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào giai đoạn 2011 - 2020, Báo cáo tổng quan Nhiệm vụ hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ theo Nghị định thư, Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam - Bộ Khoa học và Công nghệ, Hà Nội, 2013, tr. 58 - 59
(7) Nhotkhamani Souphanouvong: Những nhân tố chi phối quan hệ đặc biệt Lào - Việt Nam từ năm 1986 - 2011, Luận án Tiến sĩ Quan hệ quốc tế, Học viện Ngoại giao, 2016, tr. 85
(8) Xem: Báo Nhân Dân, số 8289, ngày 17-12-1976
(9) Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam - Viện Khoa học xã hội quốc gia Lào: Kỷ yếu Hội thảo khoa học quốc tế về mối quan hệ Việt Nam - Lào, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội, 2007, tr. 244
(10) Ban Tuyên giáo Trung ương: Quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào (1930 - 2017), Tài liệu tuyên truyền Kỷ niệm 75 năm Ngày Thiết lập quan hệ ngoại giao (1962 - 2017) và 40 năm Ngày ký Hiệp ước Hữu nghị và Hợp tác Việt Nam - Lào (1977 - 2017), Tlđd, tr. 47
(11) Nguyễn Xuân Thắng: Một số giải pháp chủ yếu nhằm tăng cường quan hệ hữu nghị đặc biệt và hợp tác toàn diện Việt Nam - Lào giai đoạn 2011 - 2020, Tlđd, tr. 63 - 64
(12) Xem: Thanh Giang: “Việt Nam luôn coi trọng và dành ưu tiên cao nhất cho mối quan hệ đặc biệt với Lào”, Báo Nhân Dân điện tử, ngày 22-11-2023, https://nhandan.vn/viet-nam-luon-coi-trong-va-danh-uu-tien-cao-nhat-cho-moi-quan-he-dac-biet-voi-lao-post783904.html
(13) Nguyễn Thị Tú Trinh: “Tham vọng của Trung Quốc, Lào trong xây dựng đập thủy điện trên sông Mekong và tác động đối với Việt Nam”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 9-2019, tr. 33
Tiếp tục vun đắp và tăng cường quan hệ đoàn kết đặc biệt Việt Nam - Lào  (27/02/2024)
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính và Thủ tướng Lào Sonexay Siphandone đồng chủ trì Kỳ họp Ủy ban liên Chính phủ Việt Nam - Lào  (07/01/2024)
- Bộ Tư lệnh Bộ đội Biên phòng với phương hướng và giải pháp trọng tâm tổ chức đại hội đảng bộ các cấp, tiến tới Đại hội XIV của Đảng
- Nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa: Bảy mươi lăm năm xây dựng và phát triển
- Phát triển kinh tế số ở Trung Quốc và một số hàm ý chính sách
- Để dịch vụ logistics vùng Đông Nam Bộ phát triển nhanh, bền vững trong bối cảnh mới
- Hoàn thiện thể chế, chính sách thúc đẩy liên kết vùng đồng bằng sông Cửu Long theo Nghị quyết số 13-NQ/TW của Bộ Chính trị
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Liên hợp quốc và những đóng góp của Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay