TCCS - Tình trạng hàng trăm nghìn người rời bỏ các trung tâm kinh tế lớn trong đại dịch COVID-19 vào nửa cuối năm 2021 đã cảnh báo về quá trình đô thị hóa quá “nóng”, khi mới chỉ chú trọng đến khía cạnh việc làm, chưa quan tâm đến các điều kiện bảo đảm cho sinh hoạt của người lao động và sự mất cân đối cơ cấu lao động - việc làm ở khu vực nông thôn. Thực trạng này cho thấy sự cần thiết phải đẩy mạnh đào tạo nghề và tạo việc làm tại chỗ cho lao động nông thôn, để người nông dân “ly nông” nhưng không “ly hương”.
Những vấn đề đặt ra từ đại dịch COVID-19
Do tác động của đại dịch COVID-19, bức tranh lao động - việc làm xấu đi trông thấy. Theo Tổng cục Thống kê, năm 2021, tình hình dịch kéo dài và phức tạp hơn trong năm 2020 đã khiến cho hàng triệu người mất việc, lao động trong các ngành tiếp tục giảm, đặc biệt là khu vực dịch vụ. Số lao động có việc làm chính thức và phi chính thức đều giảm. Số lao động có việc làm phi chính thức là 19,8 triệu người, giảm 628 nghìn người; số lao động có việc làm chính thức là 15,4 triệu người, giảm 469,8 nghìn người so với năm 2020. Hiện tượng thiếu việc làm trong độ tuổi năm 2021 là hơn 1,4 triệu người, tăng 370,8 nghìn người so với năm 2020. Tỷ lệ thiếu việc làm của lao động trong độ tuổi là 3,10%, tăng 0,71 điểm phần trăm so với năm trước. Tỷ lệ này ở khu vực thành thị là 3,33%, cao hơn 0,37 điểm phần trăm so với khu vực nông thôn. Ngoài ra, có một số liệu cần lưu ý là số lao động làm công việc tự sản tự tiêu(1) năm 2021 là hơn 4,4 triệu người, tăng khoảng 872,4 nghìn người so với năm trước. Số lao động này chủ yếu ở khu vực nông thôn (chiếm 90,3%).
Làn sóng người lao động rời Thành phố Hồ Chí Minh và các đô thị, khu công nghiệp, khu chế xuất trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam trở về quê trong nửa cuối năm 2021 là một hiện tượng, một vấn đề xã hội đáng quan tâm. Theo Tổng cục Thống kê, do ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 trong năm 2021, hơn 2,2 triệu người lao động từ thành phố, các địa phương bùng phát dịch đã hồi hương về quê. Trong đó, địa bàn có số người về quê cao nhất là Thành phố Hồ Chí Minh với hơn 520.000 người, tiếp theo là thành phố Hà Nội với hơn 440.000 người. Ngoài ra, còn tới hơn 600.000 người trở về từ các địa phương phía Nam... Một đặc điểm di cư được Tổng cục Thống kê chỉ rõ là đa số người rời bỏ thành phố, tâm dịch về quê là lao động tự do, việc làm bấp bênh và không có nhà ở tại các thành phố, tâm dịch.
Hệ quả là, các trung tâm kinh tế lớn thiếu lao động trầm trọng khi các hạn chế giãn cách được dỡ bỏ, trong khi các địa phương chịu áp lực lớn trong giải quyết việc làm cho người lao động(2). Đời sống người lao động ở các địa phương rơi vào khó khăn khi thiếu việc làm,... Đối với các tỉnh đồng bằng, có thể giải quyết một phần việc làm tại các nhà máy, khu công nghiệp ở địa phương, nhưng với hàng trăm nghìn lao động ở miền núi, hầu hết là lao động phổ thông, không có chuyên môn, không có giao kết hợp đồng lao động, trở về địa phương là một áp lực lớn đối với công tác dạy nghề, tìm việc làm cho họ.
Thực tế này cho thấy, mô hình tăng trưởng thời gian qua bộc lộ nhiều vấn đề, khi tăng trưởng kinh tế chủ yếu tập trung vào hai trọng điểm chính là Đông Nam Bộ (khu vực quanh Thành phố Hồ Chí Minh) và đồng bằng Bắc Bộ (khu vực quanh thành phố Hà Nội). Sự phát triển không đồng đều này dẫn đến mâu thuẫn giữa sức chứa hạn hẹp của đô thị với nhu cầu tăng vọt về quỹ nhà ở, lưu lượng giao thông, công trình công cộng trường học, chăm sóc sức khỏe, cấp thoát nước, điện và vệ sinh môi trường,... Trong khi ở các địa phương còn lại, đặc biệt khu vực nông thôn trở nên hoang vắng, thiếu lao động, việc làm, khó thu hút đầu tư.
Vì vậy, cần thay đổi tư duy, thay vì quá tập trung vào vài trung tâm kinh tế, thì phải phân tán thành nhiều trung tâm theo các vùng kinh tế của cả nước; coi trọng đưa công nghiệp về nông thôn hay công nghiệp hóa nông thôn; và, đẩy mạnh đào tạo, hỗ trợ giải quyết việc làm tại chỗ cho lao động nông thôn.
Dịch bệnh đã tạo ra một cuộc dịch chuyển lao động lớn chưa từng có, cùng với nhiều vấn đề an sinh xã hội đặt ra. Tuy nhiên, nếu các địa phương biết tận dụng cơ hội này thông qua đào tạo, hỗ trợ tìm việc làm thì đây là một nguồn lực quý giá đóng góp xây dựng chính quê hương mình. Tạo việc làm ngay tại quê nhà nếu tìm được giải pháp sẽ có lợi cho cả người lao động và địa phương.
Nhiều nỗ lực, nhưng chưa đủ
Để tạo việc làm cho nông thôn, trong những năm qua, Nhà nước đã nỗ lực thông qua các chính sách hỗ trợ tạo việc làm và đào tạo nghề, chuyển đổi nghề ở nông thôn.
Về các chính sách hỗ trợ giải quyết việc làm cho lao động nông thôn
Hệ thống cơ sở dữ liệu về thị trường lao động, thông tin, dự báo thị trường lao động trong cả nước; thị trường lao động nông nghiệp phát triển ngày một tốt hơn. Công tác tuyên truyền, phổ biến chính sách lao động, việc làm; phân tích xu hướng thị trường lao động để phục vụ cho định hướng đào tạo nghề và bố trí nhân lực ngày càng được chú trọng.
Triển khai quy hoạch, đầu tư phát triển hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm; thực hiện hiệu quả hoạt động giới thiệu việc làm, cung ứng lao động qua nhiều hình thức, như: Trực tiếp tại trụ sở chính, tại các điểm giao dịch vệ tinh của trung tâm dịch vụ việc làm, các phiên giao dịch việc làm hoặc gián tiếp qua cổng thông tin điện tử việc làm, các website, điện thoại, tin nhắn..., tạo thành một mạng lưới kết nối việc làm bao phủ trên toàn quốc(3). Cùng với việc tổ chức sàn giao dịch việc làm tại trung tâm giới thiệu việc làm, các địa phương cũng thường xuyên tổ chức các phiên giao dịch việc làm vệ tinh, lưu động và các ngày hội tư vấn, giới thiệu việc làm đến huyện, xã... cung cấp thông tin việc làm, nhu cầu tuyển dụng, đưa thông tin thị trường lao động đến với người lao động và người sử dụng lao động, tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động, nhất là lao động khu vực nông thôn tiếp cận thị trường lao động, kết nối cung - cầu lao động. Giai đoạn 2010 - 2019, các trung tâm dịch vụ việc làm đã tổ chức 8.148 phiên giao dịch việc làm. Số lượt lao động nhận được việc làm do trung tâm giới thiệu và cung ứng là 6.223 nghìn lượt người.
Ưu tiên ngân sách trung ương bổ sung nguồn vốn Quỹ quốc gia giải quyết việc làm. Đến nay, tổng nguồn vốn của Quỹ quốc gia về việc làm đạt trên 4.482 tỷ đồng, doanh số cho vay hằng năm từ 2.200 tỷ - 2.500 tỷ đồng; giai đoạn 2010 - 2019, Quỹ quốc gia về việc làm đã hỗ trợ tạo việc làm, duy trì và mở rộng việc làm cho trên 1.800 nghìn lao động; 90% các dự án vay vốn ở khu vực nông thôn với nhiều mô hình hiệu quả, như: Hợp tác xã sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ; các vùng nuôi trồng thủy, hải sản; mô hình kinh tế trang trại, khôi phục và phát triển các nghề truyền thống; lồng ghép với chương trình tổ nhóm giúp nhau làm kinh tế của thanh niên, phụ nữ, nông dân(4).
Về đào tạo nghề và chuyển đổi nghề ở nông thôn
Hệ thống văn bản về giáo dục nghề nghiệp nông thôn từng bước được hoàn thiện, quản lý nhà nước về giáo dục nghề nghiệp tiếp tục được kiện toàn, hoàn thiện theo hướng phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền, gắn với trách nhiệm và tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra. Ngày 5-12-2012, Ban Bí thư Trung ương Đảng khóa XI ban hành Chỉ thị số 19-CT/TW, “Về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dạy nghề cho lao động nông thôn”; ngày 29-5-2012, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chiến lược phát triển dạy nghề thời kỳ 2011 - 2020.
Hệ thống cơ sở giáo dục nghề nghiệp liên tục được đổi mới, phát triển theo Luật Dạy nghề năm 2006 trước đây và Luật Giáo dục nghề nghiệp năm 2016 hiện nay. Tính đến hết ngày 31-12-2019, cả nước có 2.150 cơ sở giáo dục nghề nghiệp (trong đó có 430 trường cao đẳng, 565 trường trung cấp và 1.155 trung tâm giáo dục nghề nghiệp); phương thức đào tạo được chuyển đổi từ dạy nghề# theo thời gian (dạy nghề ngắn hạn, dài hạn) sang dạy nghề theo 3 cấp trình độ(5).
Đề án Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020 (Quyết định số 1956/QĐ-TTg, ngày 27-11-2009, của Thủ tướng Chính phủ, phê duyệt Đề án “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn đến năm 2020”) được triển khai thực hiện đồng bộ với mục tiêu dạy nghề cho khoảng 10,6 triệu lao động nông thôn, trong đó hỗ trợ dạy nghề cho 6,54 triệu người theo chính sách của Đề án; đào tạo, bồi dưỡng 1,1 triệu lượt cán bộ, công chức xã.
Chính sách tạo việc làm cho lao động nông thôn đã có những tác động hết sức tích cực, tổng số lao động thất nghiệp nông thôn liên tục giảm (24,86% trong 10 năm), tỷ lệ lao động đã qua đào tạo tăng từ 8,5% lên đến 14,9% trong giai đoạn 2010 - 2019 [Bảng 1].
Với những nỗ lực đó, lao động trong khu vực nông thôn giai đoạn 2010 - 2019 đã có thay đổi đáng kể theo hướng tích cực, tổng số lao động thất nghiệp nông thôn liên tục giảm, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo tăng, tỷ lệ thất nghiệp có xu hướng giảm.
Tuy nhiên, do đại dịch COVID-19 tiếp tục diễn biến phức tạp, ảnh hưởng sâu sắc tới tình hình phát triển kinh tế - xã hội nói chung và công tác đào tạo, tạo việc làm tại chỗ cho lao động nông thôn nói riêng. Các địa phương đa phần khó khăn về ngân sách và phải tập trung cao độ cho công tác phòng, chống đại dịch COVID-19 nên việc bố trí kinh phí cho công tác đào tạo nghề cho lao động nông thôn gặp nhiều khó khăn. Trong năm 2021, số lao động nông thôn được hỗ trợ đào tạo đạt thấp, khoảng 55 nghìn người(6).
Cũng qua hơn 2 năm đại dịch, công tác đào tạo và giải quyết việc làm tại chỗ cho lao động nông thôn bộc lộ nhiều hạn chế, cụ thể:
- Hệ thống thông tin thị trường lao động còn bất cập, mất cân đối cung - cầu lao động cục bộ, tỷ lệ lao động ở khu vực phi chính thức còn lớn; chất lượng và tính bền vững của việc làm chưa cao, một bộ phận lao động nông thôn việc làm chưa ổn định, nhiều lao động thiếu việc làm, không có việc làm thường xuyên, năng suất lao động thấp, thu nhập thấp. Năng suất lao động trong khu vực kinh tế nông nghiệp đến nay mới bằng 41,57% năng suất lao động bình quân cả nước. Trong khi đó, năm 2020, do tác động của đại dịch COVID-19, khu vực nông, lâm, thủy sản có khoảng 6.500 doanh nghiệp, giảm 13,6% so với năm 2019(7).
- Chất lượng lao động trong khu vực kinh tế nông nghiệp được cải thiện rất chậm; tỷ trọng lao động thanh niên làm việc trong khu vực này có xu hướng giảm và lao động cao tuổi tăng, phản ánh kết quả đào tạo nói chung và giáo dục nghề nghiệp nói riêng chưa đóng góp được nhiều trong việc cung cấp nhân lực cho khu vực kinh tế nông nghiệp. Thiếu lao động chất lượng cao cũng là lý do nhiều doanh nghiệp chưa muốn đầu tư vào khu vực nông thôn. Theo Báo cáo điều tra lao động, việc làm năm 2020 của Tổng cục Thống kê, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo ở khu vực thành thị là 39,7% cao hơn gấp 2,4 lần ở nông thôn(8).
- Công tác đào tạo nghề chưa thực sự gắn với nhu cầu của xã hội, kết quả, hiệu quả dạy nghề cho lao động nông thôn không đồng đều giữa các vùng trong cả nước, đặc biệt có sự khác biệt rất lớn giữa khu vực đồng bằng so với khu vực vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Việc xác định danh mục nghề đào tạo cho lao động nông thôn, nhất là danh mục nghề nông nghiệp ở một số địa phương vẫn còn dàn trải, chưa xuất phát từ quy hoạch sản xuất nông nghiệp và thực tế địa phương. Đào tạo chưa tính đến nhu cầu của thị trường lao động tại chỗ dẫn đến tỷ lệ lao động có việc làm sau đào tạo không cao.
Để người dân có việc làm tại chỗ
Đại dịch COVID-19 tác động mạnh đến thị trường lao động, việc làm dẫn đến tình trạng hàng trăm nghìn người lao động thất nghiệp, kéo theo đó là cuộc sống của rất nhiều người bị ảnh hưởng. Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách hỗ trợ, bước đầu những chính sách này đã phát huy được hiệu quả và phần nào giúp người lao động và doanh nghiệp vượt qua khó khăn. Tuy nhiên, về lâu dài cần có giải pháp tổng thể mang tính đột phá, trong đó cần đẩy mạnh đào tạo nghề và giới thiệu việc làm tại chỗ cho người dân.
Một là, hoàn thiện đồng bộ cơ chế, chính sách về đào tạo và thu hút nhân lực cho khu vực nông nghiệp, nông thôn.
Làm tốt công tác quy hoạch mạng lưới các cơ sở đào tạo ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn trong toàn quốc, phù hợp với định hướng phát triển ngành, vùng và địa phương về nông nghiệp và nông thôn. Quy hoạch phải dựa trên phát huy hết lợi thế so sánh của từng ngành, địa phương để hình thành các vùng kinh tế trọng điểm, các cực tăng trưởng mới dựa trên cơ sở khai thác tiềm năng, thế mạnh của vùng, địa phương, hạn chế việc chủ yếu dựa vào hai vùng kinh tế trọng điểm như hiện nay dẫn đến sức ép do di cư, mật độ phát triển, thiếu gắn kết, lan tỏa, cân bằng giữa các vùng, miền như hiện nay. Quy hoạch không gian cần điều chỉnh theo hướng đẩy mạnh phát triển các thành phố vệ tinh, chuyển những ngành sử dụng nhiều lao động (như: dệt may, chế biến nông sản,...) về các đô thị nhỏ, khu vực nông thôn.
Đổi mới công tác quản lý đào tạo nhân lực đi đôi với đổi mới công tác tuyển dụng, sử dụng nhân lực sau đào tạo. Chú trọng phân cấp, nâng cao tính tự chủ của cơ sở đào tạo nhân lực, tăng cường khả năng quản trị nhà trường. Nhà nước không nên làm thay công việc của các nhà trường mà chỉ để ra các công cụ kiểm tra, kiểm soát chất lượng đào tạo.
Thực hiện đồng bộ các chính sách thu hút và phát triển nhân lực lĩnh vực nông nghiệp, như: Cải thiện môi trường làm việc, thu nhập và các điều kiện sinh sống; chế độ ưu đãi thu hút học sinh, sinh viên học các ngành, nghề nông nghiệp và phát triển nông thôn, trong đó đặc biệt ưu tiên người địa phương; hỗ trợ phát triển lưới an sinh và bảo hiểm; tăng cường khả năng tiếp cận dịch vụ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp cho người lao động khu vực nông thôn nhằm bảo đảm đời sống của người dân và duy trì sản xuất.
Lồng ghép công tác đào tạo và dạy nghề cho lao động nông thôn với kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội ở nông thôn và chương trình xây dựng nông thôn mới nhằm tạo cơ hội tìm kiếm việc làm và không ngừng nâng cao đời sống cho nông dân. Các trường đào tạo kỹ sư nông nghiệp cần hướng mạnh vào đào tạo kỹ sư thực hành mà ở đó phải dành một lượng thời gian đào tạo nhất định để xây dựng đề án và thực hành đề án để trở thành những nhà nông chuyên nghiệp(9). Có cơ chế khuyến khích, thu hút các nghệ nhân, những người nông dân giỏi tham gia các hoạt động đào tạo nghề cho lao động nông thôn. Đẩy mạnh và đa dạng hóa các hình thức đào tạo quản lý/quản trị và khởi sự doanh nghiệp cho các chủ trang trại, những nông dân có khả năng kinh doanh lớn trong lĩnh vực và phát triển nông thôn.
Hai là, hoàn thiện, phát triển thị trường lao động nông thôn.
Quy hoạch và phát triển hệ thống giao dịch việc làm phù hợp với thị trường lao động của từng vùng, từng tỉnh. Chú trọng phát triển các trung tâm dịch vụ việc làm thuộc các địa phương là trung tâm của 6 vùng kinh tế xã hội theo hướng vừa là trung tâm của tỉnh, vừa là nơi thực hiện các giao dịch việc làm, kết nối thông tin thị trường lao động, phân tích, dự báo thị trường lao động của vùng và kết nối các vùng với nhau... để giải quyết tốt hơn mối quan hệ về cung - cầu lao động tại địa phương. Định kỳ tổ chức các hội chợ việc làm để người lao động, người sử dụng lao động, các trung tâm giới thiệu việc làm, các trường và cơ sở đào tạo trực tiếp gặp gỡ, tiếp xúc, giao lưu, nắm bắt thông tin, nhu cầu về lao động việc làm, tuyển dụng, thông qua đó đáp ứng nhu cầu tuyển lao động của các doanh nghiệp, giúp người lao động tìm được việc làm, định hướng học nghề, thúc đẩy sự phát triển của thị trường lao động các địa phương.
Bên cạnh đó, ứng dụng các giải pháp khoa học công nghệ mới trong hoạt động giao dịch việc làm; xây dựng công cụ (phần mềm, bộ tiêu chí, tiêu chuẩn) quản lý chung, thống nhất hoạt động trên toàn quốc về dịch vụ việc làm; hoàn thiện và nâng cấp cổng thông tin điện tử việc làm, thu thập, cập nhật thông tin thị trường lao động và thông tin về tình hình biến động việc làm tại các doanh nghiệp; nâng cao chất lượng dự báo thị trường lao động trong ngắn hạn và dài hạn nhằm cung cấp các thông tin về cơ hội việc làm, chỗ việc làm trống, các khóa đào tạo... giúp người lao động ở khu vực nông thôn lựa chọn và quyết định học nghề, tiếp cận việc làm phù hợp.
Ba là, gắn phát triển công nghiệp, dịch vụ nông thôn với tạo việc làm tại chỗ cho lao động nông thôn.
Đưa công nghiệp về nông thôn để phát triển nông nghiệp, gắn với công nghiệp chế biến, thực hiện cơ khí hóa, điện khí hóa, thủy lợi hóa, ứng dụng các thành tựu của khoa học - công nghệ, đưa các thiết bị kỹ thuật và công nghệ hiện đại vào sản xuất nông nghiệp. Tăng cường đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, như đường cao tốc, hệ thống thông tin liên lạc ở nông thôn, từ đó cải thiện điều kiện sản xuất và môi trường đầu tư khu vực nông thôn, tăng cường sức thu hút của doanh nghiệp lớn đối với nguồn nhân lực khu vực này; hình thành và kiện toàn cơ quan quản lý nhà nước về phát triển công nghiệp nông thôn các cấp... Đặc biệt, trong bối cảnh hiện nay, tiếp tục tạo môi trường thuận lợi để huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn lực nhằm khôi phục, tháo gỡ kịp thời các khó khăn, vướng mắc, điểm nghẽn gây cản trở hoạt động sản xuất, kinh doanh để duy trì và thúc đẩy đầu tư, sản xuất, kinh doanh cho các doanh nghiệp, cơ sở công nghiệp nông thôn, chú trọng các giải pháp sản xuất, kinh doanh phù hợp trong điều kiện thích ứng an toàn với diễn biến của dịch bệnh COVID-19.
Đầu tư phát triển các khu, cụm công nghiệp, dịch vụ ở khu vực nông thôn, có các chính sách thu hút đầu tư để khuyến khích các doanh nghiệp công nghiệp, dịch vụ đầu tư vào nông thôn, nhất là các ngành sử dụng nhiều lao động, để từng bước giảm tình trạng di cư lao động từ nông thôn ra thành phố. Phát triển mạnh kinh tế dịch vụ ở khu vực nông thôn từ loại hình, quy mô... để nâng cao giá trị cho sản phẩm nông nghiệp, tạo việc làm, thu hút lực lượng lao động không tham gia sản xuất nông nghiệp. Chú trọng ưu tiên phát triển những ngành có lợi thế, giải quyết nhiều việc làm, như dệt, may mặc, da - giày, thêu, đồ chơi, chế biến hàng thủy sản xuất khẩu...
Bên cạnh đó, có chính sách phát triển các làng nghề, ngành, nghề truyền thống, trên cơ sở lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm thước đo. Một mặt, để lưu giữ truyền thống, khôi phục lại sản xuất những ngành, nghề đã bị mai một; mặt khác, để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng, xuất khẩu và kết hợp phát triển du lịch, về mặt xã hội thì phát triển ngành, nghề nhằm tạo thêm nhiều việc làm mới, góp phần giảm bớt tình trạng thất nghiệp trầm trọng ở nông thôn, tạo điều kiện cho các hộ gia đình và người lao động tăng thu nhập ổn định và cải thiện đời sống...
Bốn là, huy động sự tham gia của nhiều bên.
Huy động sự tham gia của các bên, kết hợp hoạt động giữa các “nhà” (nhà đào tạo, nhà doanh nghiệp, Nhà nước...) trong công tác đào tạo, đặc biệt là sự hợp tác giữa các đơn vị đào tạo nghề và đơn vị sử dụng lao động. Nâng cao chất lượng đào tạo, trên cơ sở tăng cường các điều kiện bảo đảm chất lượng đào tạo, đặc biệt là chất lượng của đội ngũ giảng viên trong các cơ sở giáo dục đại học và cao đẳng, hướng tới chuẩn đầu ra, phù hợp với nhu cầu sử dụng lao động trong nông nghiệp, nông thôn; gắn kết các cơ sở đào tạo với các cơ sở sản xuất trong nông nghiệp, nông thôn, nhằm nâng cao kỹ năng nghề nghiệp cho người học sau đào tạo. Theo kinh nghiệm của Trung Quốc, chính sách đào tạo lao động nông thôn muốn gắn với tạo việc làm cần thực hiện với 4 trọng tâm: 1- Đào tạo lại lao động phục vụ sản xuất nông nghiệp; 2- Đào tạo ngành phi nông nghiệp, nhất là về chế biến thực phẩm, thủ công mỹ nghệ, du lịch sinh thái; 3- Đào tạo các kỹ năng marketing và buôn bán nông nghiệp quy mô nhỏ; 4- Hỗ trợ thành lập các doanh nghiệp nông thôn quy mô vừa và nhỏ nhằm thu hút lực lượng lao động. Nhờ vậy, cơ hội tìm kiếm việc làm của người học nghề tại nông thôn cũng được nâng lên(10).
Ở Nhật Bản, hoạt động dạy nghề đặc biệt được coi trọng trong các hợp tác xã (HTX) nông nghiệp Nhật Bản. Để giúp cho các nông dân điều hành tốt và hiệu quả sản xuất nông nghiệp, các HTX nông nghiệp tiến hành các hoạt động hướng dẫn kinh doanh nông nghiệp cho nông dân bằng cách thành lập trong mỗi HTX các tổ tư vấn về nông nghiệp. Các tổ tư vấn luôn gắn chặt công việc của mình với các cơ quan quản lý hành chính, các trạm nghiên cứu nông nghiệp, các cán bộ chăn nuôi thú y và các nhóm nghiên cứu khoa học khác. Các HTX có quỹ riêng dành cho giáo dục đào tạo nghề; ngoài ra, HTX có hoạt động khuyến khích các xã viên và cán bộ tham gia các lớp tập huấn đào tạo nghề ngoài HTX, kinh phí do HTX chi trả(11). Đây là cách làm mà các HTX ở Việt Nam có thể học hỏi.
Năm là, phát huy vai trò chủ thể của người nông dân.
Chú trọng công tác giáo dục, tuyên truyền để người nông dân phát huy vai trò chủ thể của mình thông qua nâng cao trình độ kỹ thuật, kỹ năng, kỷ cương lao động, biết hợp tác lao động. Đẩy mạnh phong trào học tập, nâng cao trình độ của từng cá nhân và tập thể bằng cách mở các lớp dạy nghề và các hoạt động chuyên môn trong lĩnh vực nông nghiệp và nông thôn; thiết lập hệ thống bảo hiểm rủi ro cho nông dân; ứng dụng khoa học và công nghệ vào sản xuất nông nghiệp. Kinh nghiệm của Thái Lan cho thấy, nông dân Thái Lan ý thức được việc phải sớm tiếp cận với đổi mới công nghệ, nên hơn 90% nông dân Thái Lan sử dụng cơ giới, máy móc trong nông nghiệp, từ gieo trồng đến thu hoạch. Đồng thời, Chính phủ thực hiện kế hoạch dài hạn là Dự án phát triển “nông dân thông minh” (thực hiện từ năm 2013) thông qua việc nâng cao kỹ năng và năng lực sản xuất nông nghiệp từ các chương trình đào tạo, chia sẻ kiến thức và thông tin. Một nhóm nông dân đáp ứng được các tiêu chí đề ra sẽ được chọn để đào tạo về kiến thức kỹ thuật, kỹ năng truyền thông và trở thành “tiểu giáo viên” cấp thôn, nhà quản lý, bằng cách này, kiến thức và kinh nghiệm thực tế sẽ được lan tỏa giữa những người nông dân, từ đó nâng cao hiệu quả sản xuất nông nghiệp(12).
Việc làm là một trong những nhu cầu cơ bản của con người để có thể bảo đảm cuộc sống và sự phát triển toàn diện. Chính sách chăm lo, tạo việc làm cho người lao động là vấn đề cấp bách của toàn xã hội nói chung và khu vực nông thôn nói riêng. Khi công tác đào tạo và tạo việc làm tại chỗ cho lao động nông thôn được quan tâm sẽ hạn chế được tình trạng người nông dân rời bỏ quê hương và sẽ không còn những “làn sóng di dân” như vừa qua./.
---------------------
(1) Lao động tự sản tự tiêu là lao động sản xuất ra sản phẩm với mục đích chủ yếu để cá nhân, gia đình sử dụng. Quyết định về sản xuất của lao động tự sản tự tiêu chủ yếu hướng về bản thân và gia đình nên thường đặc trưng bởi tính khép kín, tính phi lợi nhuận đi kèm với hiệu quả thấp và năng suất không cao. Chính vì vậy, khi kinh tế và khoa học - công nghệ phát triển, hình thức sản xuất này ngày càng bị thu hẹp
(2) Trong những tháng đầu năm 2022, theo tính toán của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Bình Dương, các doanh nghiệp trên địa bàn tỉnh đang cần tuyển dụng khoảng 40.000 lao động để đáp ứng sản xuất. Tại Đồng Nai, thống kê của Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh này cho thấy, toàn tỉnh còn thiếu khoảng 100.000 lao động
(3) Hiện nay, cả nước có 48 địa phương tổ chức sàn giao dịch việc làm định kỳ, thường xuyên, tần suất tổ chức phiên giao dịch việc làm ngày càng tăng, nhiều địa phương đã tổ chức phiên giao dịch việc làm hằng tuần, như: Hà Nội, Bắc Ninh, Bắc Giang, Thành phố Hồ Chí Minh, Cần Thơ, Thái Nguyên, Bình Dương...
(4), (5) Tổng hợp báo cáo các kỳ lao động việc làm của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội giai đoạn 2010 - 2019
(6) Đỗ Năng Khánh: “Đào tạo nghề cho lao động nông thôn vượt khó trong dịch COVID-19”, Báo Nhân Dân điện tử, ngày 30-12-2021, https://special.nhandan.vn/daynghe2021/index.html
(7) Tổng điều tra kinh tế năm 2021: “Kết quả sơ bộ về doanh nghiệp và hợp tác xã”, Tạp chí Con số và Sự kiện, số 02-2022
(8) Tổng cục Thống kê: “Điều tra lao động, việc làm năm 2020”, https://www.gso.gov.vn/wp-content/uploads/2021/08/sach_laodong_2020.pdf
(9) Xem: Đoàn Minh Huấn: “Đổi mới tư duy phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn - Nhìn từ sự lãnh đạo của Đảng, vai trò của hệ thống chính trị và phát huy dân chủ ở nông thôn”, Tạp chí Cộng sản số 986, tháng 3-2022, tr. 17
(10) “Kinh nghiệm di chuyển lao động của Trung Quốc và Thái Lan”, Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 19-7-2010, https://dangcongsan.vn/kinh-te/kinh-nghiem-di-chuyen-lao-dong-cua-trung-quoc-va-thai-lan-29756.html
(11) Nguyễn Hồng Thư: “Phát triển nông nghiệp nông thôn của Nhật Bản - Kinh nghiệm cho Việt Nam”, Trang thông tin điện tử của Viện Khoa học kỹ thuật nông nghiệp miền Nam, ngày 20-11-2011, http://iasvn.org/tin-tuc/Phat-trien-Nong-nghiep,-nong-thon-cua-Nhat-Ban---kinh-nghiem-cho-Viet-Nam-2392.html
(12) Thanh Huyền: “Chương trình phát triển nông dân thông minh ở Thái Lan”, Trang thông tin điện tử của Trung tâm Khuyến nông quốc gia, ngày 17-6-2021, http://www.khuyennongvn.gov.vn/vi-VN/khoa-hoc-cong-nghe/khcn-nuoc-ngoai/chuong-trinh-phat-trien-nong-dan-thong-minh-o-thai-lan_t114c39n21186
Phát triển kinh tế biển xanh - Định hướng cần thiết để phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam  (26/05/2022)
Vai trò của hoạt động ngoại giao và hợp tác quốc tế trong công tác phòng, chống dịch bệnh COVID-19 ở Việt Nam  (02/05/2022)
Tỉnh Vĩnh Long phát huy những bài học kinh nghiệm bước đầu trong phòng, chống dịch bệnh COVID-19 để tiếp tục phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội  (27/04/2022)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Tầm quan trọng của việc phát triển năng lực tư duy phản biện cho đội ngũ cán bộ tham mưu tổ chức xây dựng Đảng hiện nay
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển