TCCS - Xu hướng đô thị hóa là không thể đảo ngược. Việt Nam cũng như các nước đang phát triển khác, đô thị hóa là sự chuyển đổi quan trọng nhất dẫn đến tái cơ cấu các nền kinh tế - xã hội và GDP đô thị luôn đạt từ từ 60% đến 80% toàn quốc, chưa kể đô thị còn có vai trò lớn hơn khi định dạng lại cuộc sống của hàng tỷ người trong tương lai. Bối cảnh đô thị hóa mới dẫn đến việc các quốc gia, trong đó có Hà Nội cần đổi mới tư duy theo hướng phát triển đô thị xanh, không gian xanh trong lòng thành phố.

Khu đô thị xanh Ecopark_Ảnh: Tư liệu

Lần đầu tiên trong lịch sử, có tới hơn một nửa dân số thế giới (hơn 4 tỷ người) sống tại các khu vực đô thị. Con số sẽ tăng lên 5 tỷ người vào năm 2030 (UN-Habitat, 2008). Tới giai đoạn 2030 - 2050, hơn 90% tăng trưởng đô thị diễn ra ở các nước đang phát triển; châu Á sẽ chiếm tới 63% dân số đô thị toàn cầu. Đến năm 2025, thế giới sẽ có 26 siêu đô thị (có hơn 10 triệu dân), Việt Nam có hai đô thị như vậy là Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội. Tính đến nay, Việt Nam có 804 đô thị và 74.000 điểm thị tứ hóa với dân số đô thị là 42 triệu người. Sự bùng nổ đô thị và dân số kéo theo khủng hoảng đô thị do hạ tầng, nhà ở, phương tiện và dịch vụ công cộng không thể theo kịp. Mặt khác, làn sóng di dân từ nông thôn ra đô thị tăng nhanh đang biến Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội thành các siêu thành phố khổng lồ.

Trong khi Thành phố Hồ Chí Minh đang tìm cách hướng quy hoạch tổng thể phát triển đến liên kết vùng hợp lý để giảm tải cho Thành phố, với tầm nhìn xa Thành phố sẽ tăng hiệu quả kinh tế đô thị tại huyện Cần Giờ và Củ Chi để không mở rộng quỹ đất đô thị, trong khi có ý kiến lại bàn mở rộng Thành phố đến tận Long An.

Hà Nội được mở rộng vào năm 2008 khiến cho diện tích tăng gấp ba lần và ôm trọn hành lang xanh gồm hơn 1.000 làng cổ xứ Đoài, vành đai nông nghiệp của sông Nhuệ đến Đông Anh và một phần Hòa Bình, Vĩnh Phúc.

Cần nghiên cứu kỹ và cân nhắc thận trọng xu hướng “quận hóa” các huyện ngoại thành thuộc các thành phố trực thuộc Trung ương như đang diễn ra hiện nay. Việc “quận hóa” các huyện ngoại thành giáp ranh các quận nội thành có thể tận dụng nhanh được kết quả đô thị hóa đã và đang diễn ra mạnh mẽ tại các huyện ngoại thành. Tuy nhiên, quá trình “quận hóa” này đang làm phình to nhanh chóng quy mô của đô thị hiện tại, làm cho thành phố hiện tại luôn trong tình trạng xây dựng với ngổn ngang các công trình bê tông hóa. Các không gian xanh ngày càng bị thu hẹp, thậm chí bị xóa bỏ, thay vào đó là các đầu tư giàn trải, kết cấu hạ tầng kỹ thuật bị chắp vá, thiếu đồng bộ. Thành phố ngày càng mở rộng ra ngoại vi, các quận truyền thống, cốt lõi của thành phố cũ khó cải tạo, chỉnh trang và thiếu đồng bộ, dẫn đến tình trạng quá tải. Sự phát triển phức tạp, chắp vá của thành phố làm cho công tác quản lý đô thị gặp không ít bất cập, vượt khỏi khả năng thích ứng của mô hình tổ chức chính quyền.

Cần đổi mới tư duy phát triển các thành phố trực thuộc Trung ương theo mô hình chuỗi đô thị như đang được triển khai ở nhiều nước phát triển. Theo đó, có thể cân nhắc từ bỏ xu hướng “quận hóa” các huyện ngoại thành để giữ lại các vùng xanh xung quanh thành phố, hạn chế mở rộng quy mô thành phố hiện tại, tập trung nguồn lực để cải tạo hạ tầng kỹ thuật của thành phố, chỉnh trang đô thị hiện tại theo hướng vừa bảo tồn các kiến trúc cổ, cũ, vừa hiện đại hóa các công trình mới, bảo đảm sự hài hòa giữa các môi trường văn hóa - xã hội và môi trường tự nhiên. Bên cạnh đó là việc đầu tư xây dựng các đô thị mới theo hướng các đô thị vệ tinh, hình thành một chuỗi đô thị hiện đại, đồng bộ về kết cấu hạ tầng - kinh tế kỹ thuật, hạ tầng kết cấu văn hóa - xã hội, kết nối với thành phố hiện tại thành siêu đô thị…

Thực tiễn cho thấy, sự bùng nổ các khu đô thị mới chưa chắc đã đem lại cho chúng ta các khu đô thị theo đúng nghĩa. Tuy có giảm áp lực chỗ ở cho người dân đô thị, đem lại lợi nhuận khổng lồ cho giới kinh doanh bất động sản và thuế cho ngân sách,... Hằng ngày, dòng người vẫn đổ về trung tâm để tìm kiếm việc làm, chủ yếu là việc làm trong lĩnh vực dịch vụ đời sống, đi lại quá nhiều và quá tải, gây tắc đường, ô nhiễm khói bụi. Đô thị ở Việt Nam mới chỉ đạt khoảng 10% diện tích  đất hạ tầng, so với quốc tế là từ 30% đến 35% (diện tích đất giao thông của Hà Nội bình quân đầu người là 4,8m2, Thành phố Hồ Chí Minh là 2,9m2, so với thế giới thì mới chỉ đạt 20 - 25%).

Xung đột giữa cái mới và cái cũ luôn là một dạng khủng hoảng của quá trình công nghiệp hóa và hệ quả của nó là đô thị hóa. Nhưng những quốc gia phát triển đã phải trải qua gần một thế kỷ để điều chỉnh những thay đổi có ảnh hưởng sâu rộng về mặt văn hóa và xã hội trong chính sách phát triển đô thị. Các nước đang phát triển phát triển đô thị nhanh chóng với phương tiện có nguồn gốc tư duy và kỹ thuật từ bên ngoài. Không có gì ngạc nhiên về sự đảo lộn đô thị về mặt văn hóa, xã hội nên cần thay đổi quan điểm về đô thị. Đến lúc đô thị cần một không gian xã hội có tính nhân bản chứ không chỉ đô thị với “tính tăng trưởng”.

Đô thị cần được tổ chức sao cho bản tính con người được tồn tại một cách tự nhiên, tạo ra những không gian sống tối ưu cho sự phát triển toàn diện và tự do của mỗi người, tạo cơ hội để họ trở thành “ego cá nhân” sáng tạo, độc lập, kết nối thành các “ego cộng đồng” văn minh, đi đến chuyển đổi cơ cấu kinh tế thông minh hơn. Muốn như vậy, quy hoạch phải chuyển thành những khung kiến tạo phát triển chứ không chỉ là công cụ mở rộng đất đai đô thị như hiện nay. Thực tế, Việt Nam cũng đã có nhiều toà nhà xanh, khu đô thị xanh, song chủ yếu là sản phẩm được gắn mác xanh chứ chưa thực sự xanh theo đúng nghĩa. Đến bây giờ, số lượng khu đô thị phát triển xanh theo đúng tiêu chí ở Việt Nam được thế giới công nhận mới chỉ có Ecopark và Phú Mỹ Hưng. Đô thị xanh không chỉ là tiêu chí có nhiều cây mà còn phải có thiết kế tiết kiệm năng lượng, môi trường sống gắn với thiên nhiên trong lành, được hưởng trực tiếp gió trời, ánh sáng mặt trời. Ở các công trình xanh, phải có ánh sáng, không khí đi vào từng căn hộ, đưa cả cây xanh lên các tầng nhà chứ không đơn giản chỉ có ít cây xanh là có thể gắn mác "xanh".

Việc xây dựng đô thị thông minh phải gắn với tiêu chí tạo ra không gian xanh cho cư dân đô thị. Đô thị xanh không chỉ là có nhiều cây mà còn phải có thiết kế tiết kiệm năng lượng, môi trường sống gắn với thiên nhiên trong lành, được hưởng trực tiếp gió trời, ánh sáng mặt trời. Ở các công trình xanh, phải có ánh sáng, không khí đi vào từng căn hộ, đưa cả cây xanh lên các tầng nhà, chứ không đơn giản chỉ có ít cây xanh là có thể gắn mác "xanh". Một công trình nhà ở được gọi là một điển hình cho công nghệ xanh phải có đủ các tiêu chuẩn công nghệ tiên tiến cho các hệ thống bảo đảm hoạt động của nhà cao tầng, bao gồm hệ thống quản lý tự động, hệ thống thông tin, hệ thống tự động hóa kỹ thuật công trình, hệ thống thiết bị trung tâm lấy năng lượng mặt trời và tích tụ n ước mưa, làm mát tòa nhà và quản lý chăm sóc cây xanh. Đây là tòa nhà điển hình của mô hình Autonomous House - Ngôi nhà tự sống, bao gồm tự tạo điện từ mặt trời, gió để sử dụng cho hệ thống chiếu sáng của tòa nhà, giảm thiểu nhiệt và khí thải trong không khí, tạo môi trường sống trong lành cho cư dân. Tòa nhà thiết lập hệ thống tự kiểm soát an ninh và an toàn kỹ thuật bằng các công nghệ thông minh phù hợp, hệ thống giám sát lối vào, lối ra, báo cháy khẩn, điện, nước… Vì ở đó, bên cạnh các tiện nghi hiện đại và kết nối khu vực, sẽ có những không gian đầy cảm xúc cho sự sẻ chia, sẽ có những thế hệ tiếp nối trưởng thành trong bầu không khí an lành, văn minh, sẽ có những ký ức được lưu giữ trên từng gốc cây, ngọn cỏ… Trong tâm thế đó, từng căn hộ không chỉ là “phòng ngủ” mà còn là nơi ta tha thiết “muốn về” sau một ngày bộn bề công việc”./.