Tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc để khu vực kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ và bền vững
TCCS - Kinh tế tư nhân đã được Đảng ta xác định là một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; là một trong ba nòng cốt để phát triển nền kinh tế độc lập, tự chủ (cùng với kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể). Tuy nhiên trên thực tế, còn nhiều khó khăn, cản trở sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân, đòi hỏi sớm có những giải pháp mạnh mẽ, quyết liệt.
Phát triển mạnh nhưng còn nhiều bất cập
Những năm qua, khu vực kinh tế tư nhân (KTTN) phát triển mạnh mẽ, đóng góp ngày càng lớn hơn vào sự nghiệp đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội của đất nước với gần 45% GDP, 1/3 thu ngân sách nhà nước, trên 40% vốn đầu tư thực hiện toàn xã hội.
Theo Báo cáo Phát triển bền vững khu vực doanh nghiệp tư nhân do Bộ Kế hoạch và Đầu tư trình Thủ tướng Chính phủ năm 2018, tốc độ tăng năng suất lao động của khu vực KTTN, trong đó chủ yếu là doanh nghiệp tư nhân (DNTN), tương đối ổn định hơn so với các khu vực kinh tế nhà nước và khu vực có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), dao động xung quanh mức 4,8% - 5,8% trong các năm 2015 - 2016. Cũng trong thời gian này, trung bình mỗi năm, khu vực DNTN tạo ra hơn 500.000 việc làm, chiếm khoảng 62% tổng số việc làm trong toàn bộ khối doanh nghiệp (DN). Thu nhập bình quân/lao động trong khu vực này cũng tăng dần theo các năm, từ 46 triệu đồng/năm/lao động (năm 2011) lên khoảng 76 triệu đồng/năm/lao động (năm 2016). Số liệu của Tổng cục Thống kê cho thấy, năm 2018, KTTN đóng góp 42,1% GDP. Tỷ trọng vốn đầu tư của khu vực KTTN trong tổng vốn đầu tư toàn xã hội tăng nhanh, như năm 2017 và 2018 đạt lần lượt là 40,6% và 43,27%.
Theo báo cáo của Ban Kinh tế Trung ương, trong hai năm 2017 - 2018, có 258.134 DN được thành lập mới và 60.458 DN sau khi tạm ngừng hoạt động đã hoạt động trở lại nhờ môi trường kinh doanh được cải thiện và các chính sách của Nhà nước hỗ trợ, phát triển DN.
Tinh thần khởi nghiệp lan tỏa rộng rãi trong xã hội và sự phát triển mạnh mẽ của KTTN trong một số lĩnh vực, như xây dựng, chế biến, chế tạo, công nghiệp ô-tô, vận tải hàng không, tài chính, ngân hàng,... góp phần không nhỏ trong phát triển thương hiệu quốc gia Việt Nam trong những ngành, lĩnh vực có nhiều tiềm năng, thế mạnh. Xu hướng phát triển các mô hình kinh doanh khởi nghiệp sáng tạo diễn ra sôi động; hiện có hơn 3.000 công ty khởi nghiệp sáng tạo (startup) đang hoạt động, trong đó có nhiều DN đã thành công.
Thu ngân sách nhà nước từ sản xuất, kinh doanh của khu vực KTTN tăng nhanh đạt trên 15%/năm, cao khoảng gấp 2 lần khu vực kinh tế FDI. Năm 2018 là năm đầu tiên thu ngân sách nhà nước từ sản xuất, kinh doanh của khu vực KTTN vượt khu vực FDI và khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN). Những tín hiệu này phản ánh sự lớn mạnh về quy mô, số lượng chủ thể và sự cải thiện về hiệu quả của KTTN.
Tuy đạt được nhiều thành tựu đáng kể, nhưng sự phát triển của khu vực KTTN, trong đó chủ yếu là DNTN vẫn chưa được như mong muốn xét từ cả phía Nhà nước và DN, chưa tương xứng với tiềm năng của khu vực này. Theo thống kê, trong “tốp” 10 DN đóng thuế cao nhất, có 5 DNNN và 5 DN FDI, chưa xuất hiện DNTN.
Trong Báo cáo Phát triển bền vững khu vực doanh nghiệp tư nhân cũng chỉ ra những hạn chế: Đa số các DNTN có quy mô là doanh nghiệp nhỏ và vừa (DNNVV) chiếm 99%, trong đó số lượng DN siêu nhỏ và nhỏ chiếm đa số (trên 90%) trong tỷ trọng DN ở cả ba nhóm ngành nông nghiệp, công nghiệp - xây dựng và thương mại - dịch vụ. Mặc dù chiếm ưu thế về số lượng (chiếm hơn 96% tổng số DN) nhưng tổng tài sản cố định và đầu tư dài hạn của khu vực DNTN chỉ chiếm khoảng 50% tổng số tài sản cố định và đầu tư dài hạn của toàn bộ khối DN.
Sự liên kết của các DNTN Việt Nam còn yếu, đặc biệt là có rất ít mối liên kết giữa các DN nhỏ với DN có quy mô lớn hơn. Các liên kết trong mô hình tập đoàn còn khá đơn giản, chưa triển khai được các hình thức liên kết “mềm” khác thông qua thỏa thuận, hợp tác sử dụng thương hiệu, dịch vụ, kết quả nghiên cứu đổi mới, ứng dụng khoa học - công nghệ chung theo nguyên tắc thị trường. Lĩnh vực hoạt động của các tập đoàn kinh tế và DN thuộc khu vực tư nhân mới chủ yếu tập trung vào một số lĩnh vực, như dịch vụ, bất động sản, các ngành, nghề thu hồi vốn nhanh,...
Khu vực DNTN Việt Nam còn thiếu vắng một lực lượng DN “đầu tàu” đủ mạnh để có thể dẫn dắt tham gia chuỗi sản xuất, chuỗi giá trị trong nước và quốc tế. Mặc dù xét về số lượng DN, khu vực KTTN đang chiếm ưu thế so với các khu vực khác, song hiệu quả hoạt động của khu vực DN này còn hạn chế. Theo khảo sát của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), gần 70% số DN vẫn kinh doanh không có lãi, chỉ có 11% số DNTN xuất khẩu trực tiếp hoặc gián tiếp thông qua người mua hàng quốc tế và chỉ có 14% số DNTN bán hàng cho các DN FDI tại Việt Nam. Mặc dù khu vực KTTN đóng góp gần 45% GDP nhưng DNTN mới chỉ đóng góp gần 8% GDP, phần lớn còn lại thuộc về khu vực kinh tế cá thể, tiểu chủ. Điều đó có nghĩa là, trong khu vực KTTN, các hộ kinh doanh, các DN nhỏ, siêu nhỏ vẫn chiếm phần lớn, còn DNTN chưa thực sự phát triển mạnh mẽ và bền vững.
Nguyên nhân dẫn đến sự phát triển chưa mạnh mẽ, chất lượng chưa cao của KTTN thời gian qua là:
Thứ nhất, những khó khăn, vướng mắc từ thể chế, chính sách, như thủ tục hành chính còn phức tạp, liên thông giải quyết thủ tục cho DN còn bất cập hoặc chưa phù hợp với thực tiễn, làm chậm quá trình đầu tư phát triển của KTTN. Nhiều vướng mắc đến từ điều kiện đầu tư, kinh doanh khi một số quy định còn chung chung, chưa rõ ràng, làm hạn chế cạnh tranh và tác động bất lợi đến DNNVV.
Thứ hai, khu vực KTTN thiếu hụt lao động có kỹ năng; năng suất lao động còn thấp. Cách thức quản trị của nhiều DN còn theo kiểu gia đình, ít tiếp cận quản trị hiện đại, thông lệ quốc tế.
Thứ ba, các DNTN còn nhiều khó khăn trong việc tiếp cận đất đai: một mặt, các thủ tục giải phóng mặt bằng, thu hồi đất thường tốn thời gian gây ảnh hưởng đến kế hoạch kinh doanh của DN; phương pháp tính giá đất, thủ tục cấp phép, thông tin quy hoạch còn gây nhiều bức xúc, cản trở tốc độ thu hồi và bàn giao đất sạch cho các nhà đầu tư; mặt khác, giá cho thuê đất, chi phí kinh doanh cao,... làm giảm khả năng cạnh tranh cũng như hạn chế khả năng tiếp cận đất đai, mặt bằng sản xuất, kinh doanh của nhiều DNTN.
Thứ tư, nhiều DNTN chưa coi trọng việc đầu tư vào công nghệ do không có đủ năng lực tài chính để đầu tư vào tài sản cố định, máy móc công nghệ làm giảm chi phí, nâng cao hiệu quả hoạt động, dẫn tới trình độ sản xuất, kỹ thuật chỉ ở mức thấp. Theo Cục Phát triển doanh nghiệp, tài sản cố định bình quân của một DNTN nhỏ chỉ duy trì ở mức 7 tỷ - 8 tỷ đồng/DN và chưa có cải thiện đáng kể.
Thứ năm, thiếu vốn luôn là vấn đề thách thức lớn đối với các DNTN khi không có tài sản thế chấp để vay vốn hoặc tài sản thế chấp không minh bạch, đang tranh chấp; thiếu dự án khả thi. Bởi vậy, DNTN còn nhiều khó khăn trong tiếp cận tín dụng, chỉ có 40% số DN đang hoạt động có khả năng tiếp cận vốn vay từ ngân hàng. Nhiều DN khó đáp ứng quy định cho vay của các tổ chức tín dụng do chưa minh bạch, rõ ràng về tình hình tài chính của mình.
Một số khuyến nghị
Để KTTN phát triển mạnh mẽ, đồng bộ, bền vững, xứng đáng là một trong ba nòng cốt của nền kinh tế, là “một động lực quan trọng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”, như Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương khóa XII đề ra, cần có những giải pháp quyết liệt, mạnh mẽ nhằm tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc, tạo điều kiện để khu vực này phát huy tối đa tiềm năng, thế mạnh. Bên cạnh đó, cần thống nhất nhận thức, tư tưởng, hành động trong triển khai các chủ trương, chính sách về phát triển KTTN, tạo sự đồng thuận cao trong xã hội về khuyến khích, tạo điều kiện phát triển KTTN. Đồng thời với phát huy thế mạnh và tiềm năng to lớn của KTTN, cần khắc phục có hiệu quả những mặt trái phát sinh trong quá trình phát triển... Trên cơ sở đó, xin đề xuất một số khuyến nghị sau:
Một là, tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi cho phát triển KTTN nhằm bảo đảm duy trì niềm tin và tăng cường đầu tư, kinh doanh bền vững, xây dựng những “đầu tàu” DNTN đủ mạnh.
Nhà nước cần bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, đẩy nhanh quá trình cơ cấu lại nền kinh tế gắn với đổi mới mô hình tăng trưởng. Tăng cường cơ chế, chính sách khuyến khích thành lập DNTN; thu hẹp những lĩnh vực kinh doanh có điều kiện, tạo điều kiện để KTTN đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh trong những ngành, lĩnh vực, địa bàn mà pháp luật không cấm, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội trong từng thời kỳ.
Khuyến khích, tạo điều kiện cho các hộ kinh doanh mở rộng quy mô, nâng cao hiệu quả hoạt động, tự nguyện liên kết hình thành các hình thức tổ chức hợp tác hoặc chuyển đổi sang hoạt động kinh doanh theo mô hình DN thông qua các chính sách, như miễn, giảm thuế thu nhập DN, tiền sử dụng đất trong những năm đầu hoạt động; tư vấn, hướng dẫn thủ tục thành lập DN, xây dựng phương án sản xuất, kinh doanh; hỗ trợ công tác tài chính, kế toán; cung cấp thông tin; hướng dẫn quản trị DN và tư vấn pháp luật.
Hoàn thiện và bảo đảm thực thi minh bạch, hiệu quả chính sách hỗ trợ phát triển DNNVV. Tạo tiền đề hình thành các tập đoàn KTTN sở hữu hỗn hợp, bao gồm cả việc góp vốn vào các tập đoàn kinh tế nhà nước có tiềm lực vững mạnh, đủ sức cạnh tranh, tham gia mạng sản xuất, chuỗi giá trị khu vực và toàn cầu, đặc biệt là trong lĩnh vực công nghiệp chế biến, chế tạo, điện tử, nông nghiệp.
Bảo đảm các cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển KTTN phù hợp với cơ chế thị trường và thúc đẩy tính tự chủ, cạnh tranh của KTTN. Mở rộng hơn nữa khả năng tham gia thị trường của khu vực KTTN và thúc đẩy cạnh tranh bình đẳng giữa các khu vực kinh tế. Phát triển mạnh mẽ, thông suốt, đồng bộ các thị trường, hệ thống lưu thông, phân phối hàng hóa, dịch vụ trên cả nước, đặc biệt là thị trường tư liệu sản xuất; đồng thời, có biện pháp bảo vệ có hiệu quả thị trường trong nước gắn với đẩy mạnh phát triển thị trường quốc tế phù hợp với các cam kết quốc tế. Bảo đảm cạnh tranh lành mạnh trên thị trường, xóa bỏ các rào cản, chính sách, các biện pháp hành chính can thiệp trực tiếp vào thị trường và sản xuất, kinh doanh.
Tạo điều kiện để KTTN tham gia quá trình cơ cấu lại DNNN thông qua việc góp vốn, mua cổ phần; thúc đẩy liên kết theo chuỗi giá trị giữa DNNN và DNTN... Đẩy mạnh xã hội hóa, tạo điều kiện cho KTTN tham gia cung cấp dịch vụ công. Hoàn thiện thể chế quản lý tài chính DN và minh bạch thông tin tài chính DN của tư nhân.
Tạo điều kiện thuận lợi để KTTN tiếp cận đất đai, tài nguyên một cách minh bạch, bình đẳng, đúng pháp luật; tiếp cận, khai thác các cơ hội trong hội nhập quốc tế, mở rộng thị trường, đẩy mạnh đầu tư và thương mại quốc tế; xóa bỏ các rào cản bất hợp lý đối với KTTN khi tham gia thương mại, đầu tư quốc tế.
Bên cạnh đó, để xây dựng “những con sếu đầu đàn” trong thành phần KTTN, cần đặt lại đúng vị trí của DNTN là “đầu tàu” thông qua việc Chính phủ định hướng chính sách, lắng nghe, tiếp cận và đối thoại, từ đó chọn lọc và phát triển đội ngũ doanh nhân lớn mạnh, phát triển thành phần KTTN. Trong đó, việc thúc đẩy quan hệ đối tác công - tư có ý nghĩa không chỉ trong phát triển kết cấu hạ tầng mà còn yểm trợ phát triển một số ngành công nghiệp quan trọng do các DN “đầu tàu” khu vực tư nhân dẫn dắt.
Hai là, hỗ trợ thúc đẩy KTTN khởi nghiệp, đổi mới, sáng tạo, nhất là các DNTN; ứng dụng và hiện đại hóa khoa học - công nghệ, khai thác cơ hội của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
Như trên đã phân tích, mặc dù khu vực KTTN có đóng góp gần 45% GDP nhưng DNTN mới chỉ đóng góp gần 8% GDP, DNTN cũng chiếm ưu thế về số lượng nhưng tổng tài sản cố định và đầu tư dài hạn lại chỉ chiếm khoảng 50%. Vậy nên, trong thời gian tới, Nhà nước cần khuyến khích, hỗ trợ khu vực KTTN nói chung, DNTN nói riêng đầu tư vào các hoạt động nghiên cứu và phát triển, ứng dụng, chuyển giao công nghệ tiên tiến. Hoàn thiện và bảo đảm thực thi hiệu quả pháp luật về sở hữu trí tuệ. Phát triển các quỹ hỗ trợ đổi mới sáng tạo và ứng dụng công nghệ. Áp dụng chính sách thuế, hỗ trợ tài chính, tiếp cận các nguồn vốn ưu đãi phù hợp với hoạt động nghiên cứu, đổi mới, hiện đại hóa công nghệ. Kết nối DN, ý tưởng khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo với các nhà đầu tư, quỹ đầu tư.
Ưu tiên phát triển các khu công nghệ cao, các vườn ươm công nghệ cao và các DN khoa học - công nghệ. Đẩy mạnh đầu tư, phát triển các cơ sở nghiên cứu khoa học - công nghệ, đội ngũ các nhà khoa học. Tăng cường hợp tác trong nước và quốc tế trong nghiên cứu phát triển, ứng dụng khoa học - công nghệ; mua bán, chuyển giao các sản phẩm khoa học - công nghệ mới. Đẩy mạnh thương mại hóa các sản phẩm nghiên cứu khoa học - công nghệ.
Tiếp tục xây dựng và phát huy vai trò của đội ngũ doanh nhân Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Chú trọng đào tạo, bồi dưỡng và phát triển đội ngũ doanh nhân có trình độ chuyên môn cao, kỹ năng quản lý, quản trị hiện đại, đạo đức kinh doanh và tinh thần trách nhiệm đối với quốc gia, dân tộc. Xây dựng và triển khai rộng rãi các chuẩn mực đạo đức, văn hóa của doanh nhân Việt Nam trong nền kinh tế độc lập, tự chủ và hội nhập quốc tế.
Khuyến khích, động viên tinh thần kinh doanh, ý chí khởi nghiệp và đổi mới, sáng tạo trong toàn xã hội, nhất là trong cộng đồng DN. Đẩy mạnh phổ biến, tuyên truyền, giáo dục kiến thức kinh doanh, khởi nghiệp trong toàn xã hội.
Ba là, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước.
Việc xây dựng bộ máy nhà nước tinh gọn, hiệu lực, hiệu quả; phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức liêm chính, có tư tưởng chính trị vững vàng, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao; nâng cao năng lực xây dựng và tổ chức thực hiện có hiệu quả pháp luật, cơ chế, chính sách, kế hoạch, quy hoạch, chiến lược phát triển, tạo môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, an toàn cho KTTN phát triển lành mạnh, đúng định hướng là yêu cầu tất yếu.
Bên cạnh đó, cần phân biệt rõ cái gì Nhà nước làm, còn lại cái gì thị trường quyết định để giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa Nhà nước và thị trường. Tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác giám sát, thanh tra, kiểm tra, trách nhiệm giải trình của các bộ, ngành, chính quyền địa phương các cấp đối với việc chấp hành chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển KTTN; kịp thời phát hiện và xử lý nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật, bảo đảm không làm ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất, kinh doanh và tạo gánh nặng tâm lý đối với người dân và DN.
Đơn giản hóa tối đa các thủ tục hành chính, giảm bớt chi phí đối với các DN siêu nhỏ, đồng thời xác lập khung khổ pháp lý cho khu vực hộ kinh doanh có đăng ký. Ngoài việc quan tâm đến phát triển số lượng DN, cần chú trọng đến nâng cao chất lượng của các DNTN.
Thúc đẩy phát triển KTTN không thể tách rời khỏi các chính sách nhằm cấu trúc lại khu vực DNNN và thu hút chọn lọc các DN FDI, để vừa tạo môi trường kinh doanh bình đẳng, vừa tạo dư địa cho phát triển KTTN. Khuyến khích các DN tham gia các liên minh liêm chính và áp dụng bộ chỉ số DN phát triển bền vững. Khuyến khích các DN lớn xây dựng và thực hiện các báo cáo phát triển bền vững.
Nhà nước cần tạo kênh huy động vốn trung và dài hạn, chú trọng phát triển trái phiếu DN, các quỹ đầu tư bất động sản, tạo điều kiện cho các DN tiếp cận với các nguồn vốn này; đồng thời đẩy mạnh cổ phần hóa DNNN, thoái vốn nhà nước tại DNNN, tạo điều kiện cho khu vực tư nhân tham gia hoạt động quản trị; một số bộ, ngành liên quan cần tiếp tục hoàn thiện thể chế tài chính DN, thuế, hải quan, đất đai.../.
Để nâng cao hiệu quả công tác xây dựng tổ chức đảng và phát triển đảng viên trong doanh nghiệp tư nhân  (17/02/2020)
Công tác bảo đảm an ninh kinh tế trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế  (06/02/2020)
Quan điểm của Ph. Ăng-ghen về tư duy lý luận và ý nghĩa đối với việc đổi mới tư duy về phát triển kinh tế thị trường hiện đại ở Việt Nam hiện nay  (19/01/2020)
Nhận thức và ứng xử đúng quy luật với vấn đề bóc lột trong quá trình phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam  (22/10/2019)
Về sự liêm chính trong kinh doanh và văn hóa doanh nghiệp hiện nay  (13/09/2019)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Tầm quan trọng của việc phát triển năng lực tư duy phản biện cho đội ngũ cán bộ tham mưu tổ chức xây dựng Đảng hiện nay
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển