Việt Nam - Liên Hợp quốc: mối quan hệ tin cậy, bền vững
1. Trong giai đoạn từ năm 1977 đến năm 1991, do tác động của “chiến tranh lạnh” trên thế giới, trong điều kiện bị bao vây, cấm vận, vai trò và vị thế của Việt Nam tại Liên Hợp quốc còn ở mức hạn chế. Tuy vậy, Việt Nam vẫn nhận được nguồn viện trợ trực tiếp không hoàn lại của hệ thống phát triển của Liên Hợp quốc, với tổng trị giá trên 500 triệu USD. Các tổ chức chuyên môn thuộc hệ thống phát triển của Liên Hợp quốc đã góp phần giúp Việt Nam khắc phục những khó khăn về kinh tế - xã hội, khắc phục hậu quả chiến tranh, thiên tai, hỗ trợ giải quyết các vấn đề xã hội nhất là trong lĩnh vực y tế, giáo dục, chăm sóc bảo vệ bà mẹ trẻ em và thực hiện kế hoạch hóa gia đình, tạo điều kiện cho Việt Nam nâng cao trình độ công nghệ và thúc đẩy tiến bộ về khoa học - kỹ thuật, góp phần phục hồi và xây dựng mới một số cơ sở sản xuất, tăng cường năng lực phát triển. Ba mươi năm qua, kể từ ngày Đại Hội đồng Liên Hợp quốc thông qua Nghị quyết 32/2 năm 1977 kêu gọi các nước, các tổ chức quốc tế viện trợ, giúp Việt Nam tái thiết sau chiến tranh đến nay, tổng trị giá các dự án Liên Hợp quốc dành cho Việt Nam lên đến gần 2 tỉ USD; Quỹ Nhi đồng Liên Hợp quốc (UNICEF) và Chính phủ Việt Nam đã xây dựng thực hiện 7 chương trình hợp tác quốc gia với tổng số tiền do quỹ này tài trợ là 383 triệu USD; ngân sách dự tính dành cho Việt Nam giai đoạn 2010 là 84 triệu USD và tiếp tục hỗ trợ cho Việt Nam trong các dịch vụ cơ bản như y tế, dinh dưỡng, cung cấp nước sạch, giáo dục vệ sinh...
Một số hoạt động Cấp cao của Việt Nam tại
Liên Hợp quốc: - Năm 1995, Chủ tịch nước Lê Đức Anh đã dự khóa họp 50 của Đại Hội đồng Liên Hợp quốc; đoàn Việt Nam đã có nhiều đóng góp vào giải quyết các vấn đề thời sự đặt ra trong đó có vấn đề cải tổ Liên Hợp quốc. Thăm trụ sở Liên Hợp quốc và tặng Liên Hợp quốc phiên bản Trống đồng Ngọc Lũ của Việt Nam. - Năm 2000, Chủ tịch nước Trần Đức Lương đã tham dự Hội nghị Thượng đỉnh Thiên niên kỷ của Liên Hợp quốc, và đã ký Tuyên bố Thiên niên kỷ cùng với 188 quốc gia khác. - Năm 2005, Phó Chủ tịch nước, Trương Mỹ Hoa đã tham dự Hội nghị toàn thể Cấp cao Đại Hội đồng Liên Hợp quốc. - Tháng 6-2007, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã có cuộc gặp gỡ với Tổng thư ký Ban Ki-mun tại trụ sở Liên Hợp quốc. Tại cuộc gặp gỡ này, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết đã khẳng định Việt Nam mong muốn trở thành thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009 và khẳng định Việt Nam sẽ nỗ lực hết mình để hoàn thành trọng trách này. |
2. Kể từ khi Việt Nam thực hiện đường lối đổi mới (năm 1986), đặc biệt là từ năm 1991 đến nay, vị thế và vai trò cũng như mức độ đóng góp của Việt Nam vào các hoạt động của Liên Hợp quốc ngày càng tăng cả về chiều rộng và chiều sâu. Việt Nam đã đảm nhận một số chức vụ và ứng cử vào một số cơ quan của Liên Hợp quốc như:
- Phó Chủ tịch Đại hội đồng Liên Hợp quốc năm 1997, 2000 và 2003
- Thành viên Hội đồng Kinh tế - Xã hội của Liên Hợp quốc (EOCSOC) nhiệm kỳ 1998-2000. EOCSOC là cơ quan quan trọng thứ hai của Liên Hợp quốc sau Hội đồng Bảo an.
- Chủ tịch Đại hội đồng của Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp (FAO) khóa 33 (2005-2007).
- Thành viên Ủy ban Nhân quyền (2001-2003)
- Thành viên Hội đồng Điều hành của Chương trình Phát triển và Quỹ Dân số (UNDP/UNFPA) nhiệm kỳ 2000-2002.
- Thành viên Hội đồng Thống đốc Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (IAEA), nhiệm kỳ 1991-1993; 1997-1999; 2003-2005.
- Hội đồng Điều hành Liên minh Bưu chính Thế giới (1999-2004).
- Liên minh Viễn thông Quốc tế (nhiệm kỳ 1994-1998; 1998-2002; 2002-2006).
- Thành viên của Hội đồng chấp hành Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp quốc (UNESCO) ( nhiệm kỳ 1979-1983).
- Phó Chủ tịch Hội đồng chấp hành (nhiệm kỳ 2001-2003) của UNESCO.
Từ tháng 2-1997, Việt Nam đã đăng ký ứng cử viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc. Đến tháng 10-2006, nhóm châu Á gồm 54 nước, đã nhất trí thông qua quyết định giới thiệu Việt Nam là ứng cử viên duy nhất của nhóm châu Á cho ghế Ủy viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc nhiệm kỳ 2008-2009. Sự ủng hộ đó là minh chứng khẳng định uy tín và vị thế của Việt Nam ngày càng được đánh giá cao trên trường quốc tế, cũng như tiềm lực và khả năng đóng góp của Việt Nam vào việc gìn giữ hòa bình, ổn định và phát triển ở khu vực và trên thế giới. "Đây chính là lúc Việt Nam trở thành thành viên không thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc", Đại sứ Nhật Bản tại Việt Nam Norio Hattori nói với phóng viên Thông tấn xã Việt Nam trong một cuộc phỏng vấn gần đây như vậy. Cuộc bỏ phiếu chính thức dự kiến diễn ra và ngày 16-10-2007 trong thời gian Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc họp khóa 62 tại Niu-oóc.
Với chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở; đa phương hóa, đa dạng hóa các quan hệ quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, Việt Nam đã tham gia tích cực và chủ động vào nhiều lĩnh vực thuộc các chủ đề chính trong chương trình nghị sự của Liên Hợp quốc như: hòa bình, an ninh, giải trừ quân bị cũng như phát triển kinh tế - xã hội, dân số - kế hoạch hóa gia đình và bảo vệ môi trường.
Trong lĩnh vực giải trừ quân bị: Việt Nam đã tích cực tham gia vào quá trình thương lượng và là thành viên chính thức của Công ước Vũ khí hóa học (CWC) năm 1998; Ký Hiệp ước cấm thử hạt nhân toàn diện (CTBT) năm 1996; tham gia và trở thành thành viên của Hội nghị Giải trừ Quân bị (CD) từ ngày 17-6-1996. Hằng năm, Việt Nam tham gia đều đặn vào Cơ chế Đăng kiểm Vũ khí thông thường của Liên Hợp quốc, nhằm thực hiện một trong các biện pháp xây dựng lòng tin với các nước làm tốt nghĩa vụ của thành viên của Liên Hợp quốc.
Trong hợp tác phát triển: Cơ sở và định hướng chung cho các hoạt động của các tổ chức Liên Hợp quốc tại Việt Nam dựa trên Khuôn khổ hỗ trợ phát triển của Liên Hợp quốc (UNDAF) đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại văn bản số 603/Ttg-QHQT ngày 16-05-2005 và định hướng ưu tiên của Việt Nam đề ra trong: Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001-2010; Kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 2006-2010; Chiến lược về tăng trưởng và xóa đói giảm nghèo (CPRSG)..., đồng thời phù hợp với các lĩnh vực mà các tổ chức Liên Hợp quốc quan tâm và có thế mạnh, trong đó ưu tiên tập trung vào việc phấn đấu đạt các Mục tiêu Thiên niên kỷ.
Hiện nay, hướng ưu tiên hợp tác giữa Việt Nam và các tổ chức Liên Hợp quốc được thể hiện bằng việc đạt được 3 mục tiêu chính nêu trong Khuôn khổ hỗ trợ phát triển của Liên Hợp quốc, đó là: xây dựng các chính sách kinh tế hỗ trợ quá trình tăng trưởng mang tính công bằng, hòa nhập và bền vững; nâng cao chất lượng cung cấp các dịch vụ xã hội, an sinh xã hội và tính công bằng trong việc tiếp cận các dịch vụ này; các chính sách, luật pháp và cơ cấu quản trị quốc gia hỗ trợ một cách có hiệu quả cho sự phát triển dựa trên quyền để thực hiện các giá trị và Mục tiêu của Tuyên bố Thiên niên kỷ (MDGs).
Một phiên họp của Hội đồng Liên Hợp quốc |
Việt Nam đang dẫn đầu thế giới về hiệu quả sử dụng viện trợ. Các chỉ số phúc lợi được nhanh chóng cải thiện, Việt Nam có triển vọng đạt được hầu hết các Mục tiêu Thiên niên kỷ như đã cam kết với Liên Hợp quốc.
3. Gần đây, để đóng góp thiết thực vào quá trình cải tổ hoạt động của Liên Hợp quốc, Việt Nam đã đưa ra sáng kiến "Một Liên Hợp quốc". Đây là sự hưởng ứng cụ thể của Việt Nam đối với với tiến trình tăng cường hiệu quả viện trợ (Tuyên bố Hà Nội về Hiệu quả viện trợ) và đối với yêu cầu phải có một Liên Hợp quốc. Sáng kiến “Một Liên hợp quốc” được xây dựng dựa trên cơ sở năm trụ cột, bao gồm: Một lãnh đạo chung; Một kế hoạch chung; Một ngân sách chung; Một phương thức quản lý chung và Một trụ sở chung. “Tất cả năm cái chung này bổ sung, hỗ trợ cho nhau và thực hiện cùng nhau thì sẽ giúp tăng cường năng lực củaLiên Hợpquốctrong việc ra các quyết định chiến lược”. Kế hoạch hành động chung giai đoạn từ nay đến năm 2010 đã được ký vào cuối tháng 8 vừa qua, giữa Bộ trưởng Kế hoạch và Ðầu tư Võ Hồng Phúc thay mặt Chính phủ Việt Nam và Ðiều phối viên thường trú Liên Hợp quốc tại Việt Nam. Ðây là lần đầu Liên Hợp quốc ký một bản kế hoạch chung ở cấp quốc gia. Kế hoạch này là trụ cột quan trọng của sáng kiến "Một Liên hợp quốc" tại Việt Nam, được xây dựng dựa trên những lợi thế đặc biệt của Liên Hợp quốc tại Việt Nam, nhằm mục đích tối ưu hóa tác động của Liên Hợp quốc trong năm lĩnh vực trọng tâm: chính sách, kế hoạch và luật kinh tế - xã hội toàn diện và công bằng; Dịch vụ và bảo trợ xã hội có chất lượng và phổ cập; Bảo vệ môi trường và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên; Quản trị Nhà nước trên cơ sở khuyến khích sự tham gia của người dân, minh bạch và có trách nhiệm giải trình; Giảm thiệt hại do thiên tai gây ra.
Lựa chọn Việt Nam là một trong tám quốc gia làm nơi thí điểm đầu tiên thực hiện lộ trình cải cách tổ chức, hoạt động của mình ở cấp quốc gia, Liên Hợp quốc không chỉ cho rằng Việt Nam đã và đang đi đầu trong nỗ lực nâng cao hiệu quả viện trợ và quá trình tiến tới hoạt động theo một thể thống nhất của Liên Hợp quốc, mà còn nhận thấy mối quan hệ lâu dài tin cậy lẫn nhau giữa Việt Nam với tổ chức này. Đó là nhận định của Ông Kemal Dervis, Chủ tịch Nhóm các tổ chức Phát triển Liên Hợp quốc (UNDG) kiêm Tổng giám đốc Chương trình phát triển Liên Hợp quốc. Với trọng trách như vậy, hiện nay, Việt Nam đang trở thành tâm điểm của công cuộc cải cách Liên Hợp quốc. Điều phối viên thường trú Liên Hợp quốc tại Việt Nam John Hendra nhận xét: “Thế giới sẽ rất quan tâm đến những gì diễn ra tại Việt Nam vì giờ đây Việt Nam đã thực sự là tâm điểm của công cuộc cải cách Liên Hợp quốc trên phạm vi toàn cầu”.
Đánh giá vai trò của Việt Nam trong Liên Hợp quốc, Tổng thư ký Liên Hợp quốc, ông Ban Ki-mun đã nói: Việt Nam luôn đi đầu trong việc thực hiện Tuyên bố Thiên niên kỷ, trong đó có mục tiêu cải tổ Liên Hợp quốc, và trở thành tấm gương cho nhiều nước.
ADB dự báo kinh tế Việt Nam tiếp tục phát triển mạnh  (19/09/2007)
Đã đến thời của con Rồng Việt Nam  (19/09/2007)
Số người cực nghèo ở Mỹ cao kỷ lục  (19/09/2007)
Nhìn lại 20 năm phát triển vùng kinh tế trọng điểm phía nam  (19/09/2007)
Đạo đức trong giao tiếp xã hội ở nước ta hiện nay  (19/09/2007)
- Vai trò của Hội Xuất bản Việt Nam trong việc phát triển ngành xuất bản và nguồn nhân lực ngành xuất bản
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 2)
- Nâng cao chất lượng công tác phát triển đảng viên trong Đảng bộ Khối các cơ quan Trung ương
- Một số giải pháp thúc đẩy quá trình chuyển đổi số tại các cơ sở giáo dục đại học ngoài công lập ở Việt Nam
- An ninh nguồn nước ở Thái Lan và hàm ý cho Việt Nam
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên