Nhằm đánh giá tác động sau 2 năm gia nhập WTO đối với ngành Ngân hàng và Bảo hiểm Việt Nam, cuộc Hội thảo “Đánh giá tác động hội nhập sau 2 năm gia nhập WTO đối với nền kinh tế Việt Nam - Ngành Ngân hàng và Bảo hiểm” đã được tổ chức. Qua những đánh giá, phân tích của nhiều nhà nghiên cứu; những người trực tiếp hoạt động trong lĩnh vực ngân hàng, bảo hiểm tại Hội thảo có thể thấy nổi lên một số vấn lớn sau đây.

Trong quá trình đám phán gia nhập WTO, đàm phán các cam kết trong lĩnh vực dịch vụ tài chính chiếm một thời lượng đáng kể. Điều đó cho thấy, một mặt, đây là lĩnh vực nhạy cảm mà các nước thành viên đặc biệt quan tâm, và mặt khác, quan điểm thận trọng của Việt Nam trong việc mở cửa lĩnh vực tài chính nói chung, và hệ thống ngân hàng nói riêng.

I. Trong lĩnh vực ngân hàng

1- Sức hấp dẫn của thị trường tài chính ngân hàng Việt Nam

Các ngân hàng nước ngoài với mục đích thu lợi nhuận cao, lợi nhuận siêu ngạch đã nhìn thấy tương lai và tiềm năng của thị trường Việt Nam. Bởi Việt Nam là quốc gia đông dân, lượng khách hàng sử dụng dịch vụ ngân hàng sẽ rất lớn; nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao, liên tục và tương đối ổn định trong nhiều năm, và theo đánh giá của nhiều tổ chức, chuyên gia nước ngoài, nền kinh tế Việt Nam sẽ tiếp tục tăng trưởng mạnh mẽ trong tương lai. Các sản phẩm, dịch vụ tài chính ngân hàng của Việt Nam đang ở trình độ thấp, đơn sơ, còn các ngân hàng nước ngoài lại có ưu thế vượt trội cả về tài chính, kỹ năng quản lý và công nghệ.

2- Hệ thống ngân hàng Việt Nam được lợi gì?...

Thứ nhất, đối với Ngân hàng Nhà nước, với vai trò vừa là cơ quan quản lý nhà nước về tiền tệ, tín dụng và hoạt động ngân hàng, vừa đưa ra những hoạch định và điều hành chính sách tiền tệ, Ngân hàng nhà nước hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động ngân hàng phù hợp với các cam kết quốc tế, bảo đảm tuân thủ các chuẩn mực quốc tế, vừa phù hợp với điều kiện Việt Nam; tăng cường năng lực xây dựng và thực thi chính sách tiền tệ và tỷ giá; cải cách và phát triển hệ thống giám sát ngân hàng, cải cách hành chính và nguồn nhân lực nhằm đáp ứng yêu cầu của tình hình mới; mở rộng hợp tác quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng để trao đổi, học hỏi, kinh nghiệm từ các nền kinh tế phát triển và các nền kinh tế có điều kiện tương đồng...

Thứ hai, đối với hệ thống các ngân hàng thương mại. Các ngân hàng thương mại trong nước tranh thủ khai thác tối đa lợi thế cạnh tranh trên “sân nhà”: có mạng lưới rộng lớn, có khách hàng truyền thống, hiểu biết về khách hành cũng như các điều kiện kinh doanh tại Việt Nam, kinh nghiệm nghiệp vụ tích lũy trong nhiều năm qua; đầu tư xây dựng hệ thống ngân hàng cốt lõi cho phép quản trị dữ liệu một cách tập trung tại Hội sở chính, giảm thiểu rủi ro trong hoạt động kinh doanh; cho ra đời nhiều sản phẩm dịch vụ mới, đa dạng, tăng tiện ích cho khách hàng. Dịch vụ tiền gửi được đa dạng hóa, cho phép người gửi có nhiều lựa chọn cho đồng vốn nhàn rỗi của mình, đặc biệt, đã có sự bùng nổ trong dịch vụ thanh toán thẻ; quy mô vốn của các ngân hàng thương mại đã được tăng lên đáng kể. Các ngân hàng Việt Nam có điều kiện hợp tác với các ngân hàng nước ngoài nhằm nhận được sự chuyển giao công nghệ và học hỏi kinh nghiệm của các nước nâng cao sức cạnh tranh nội tại cho ngân hàng và tìm hướng phát triển trong thời gian tới. Chiến lược này vừa bảo đảm cho ngân hàng Việt Nam giữ được những thế mạnh vốn có, vừa có thêm yếu tố nước ngoài, phù hợp với tâm lý tiêu dùng của người Việt Nam, lấp đi những yếu kém về năng lực cạnh của mình, biến các ngân hàng nước ngoài từ đối thủ trở thành đồng minh.

Nhờ vậy, các ngân hàng thương mại có điều kiện mở rộng mạng lưới chi nhánh, các địa bàn hoạt động, tăng cường khả năng cạnh tranh. Hệ số an toàn vốn đến nay đều đã đạt trên mức quy định.

Hiện nay, thị phần huy động của các ngân hàng thương mại trong nước chiếm tỷ trọng lớn, khoảng 90%, và vẫn giữ vai trò chủ đạo trong cung cấp các dịch vụ truyền thống là huy động vốn và cho vay.

Thứ ba, đối với khách hàng. Đối với khách hàng là các doanh nghiệp, các sản phẩm tiện ích phục vụ hoạt động kinh doanh đã giảm thiểu rủi ro và tăng khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, góp phần tăng trưởng lợi nhuận, thị phần của các doanh nghiệp Việt Nam, đồng thời làm gia tăng các luồng chu chuyển vốn thông qua hệ thống tài chính ngân hàng. Khách hàng là cá nhân cũng có nhiều cơ hội trong việc sử dựng các tiện ích tiên tiến của ngân hàng.

3- ...và đứng trước những thách thức nào?

Thứ nhất, công tác điều hành của Ngân hàng Nhà nước sẽ khó khăn và phức tạp hơn rất nhiều. Những diễn biến khó lường của nền kinh tế thế giới ảnh hưởng không nhỏ đến việc xây dựng và điều hành chính sách tiền tệ, bảo đảm các cân đối vĩ mô. Một số lượng lớn các ngân hàng nước ngoài đầu tư, mở chi nhánh hoặc thành lập các ngân hàng 100% vốn nước ngoài cùng với sự mở rộng hệ thống ngân hàng quá nhanh cũng đặt ra những thách thức cho việc giám sát hoạt động ngân hàng của Ngân hàng Nhà nước.

Thứ hai, các ngân hàng thương mại sẽ phải cạnh tranh với những đối thủ mạnh hơn rất nhiều, cũng như phải đối mặt với rủi ro khủng hoảng, các “cú sốc” kinh tế tài chính khu vực và trên thế giới lan truyền; mất dần lợi thế về khách hàng và kênh phân phối, nhất là từ sau năm 2010, khi những phân biệt về huy động vốn, sản phẩm dịch vụ... bị loại bỏ. Với trình độ quản lý và kinh nghiệm lâu năm trong lĩnh vực ngân hàng, khối các ngân hàng nước ngoài có rất nhiều ưu thế trong lĩnh vực cung cấp các sản phẩm dịch vụ phi truyền thống. Điều này đòi hỏi các ngân hàng thương mại Việt Nam phải tiếp tục hiện đại hóa nền tảng công nghiệp, đa dạng hóa các sản phẩm, dịch vụ theo hướng hiện đại.

Thực tế hoạt động của 10 ngân hàng nước ngoài đầu tư vào các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam thời gian qua như ACB, Sacombank, Techcombank, VPBank, Eximbank, Habubank, Seabank, Phương Đông, Phương Nam, An Bình đã chứng minh việc lựa chọn đầu tư vào Việt Nam là đúng đắn và có cơ sở khoa học. Tuy nhiên, đây cũng mới chỉ là bước 1. Bước tiếp theo, các ngân hàng nước ngoài sẽ nâng tối đa phần sở hữu tại các ngân hàng thương mại cổ phần Việt Nam theo mức Chính phủ Việt Nam cho phép và lập ngân hàng con 100% vốn của họ nhằm tiến sâu hơn vào thị trường Việt Nam. Theo thời gian, các ngân hàng nước ngoài sẽ dần đứng vững và chiếm thị phần lớn tại Việt Nam. Lợi thế này sẽ đẩy các ngân hàng thương mại Việt Nam là tình thế bị mất thị phần và chịu áp lực cạnh tranh gay gắt.

Hiện nay, có 2 ngân hàng 100% vốn nước ngoài đã được chấp thuận thành lập về mặt nguyên tắc và đang chờ giấy phép hoạt động là HSBC và Standard Chartered Bank. Đây thực sự là những nhân tố mới trên thị trường ngân hàng tài chính Việt Nam.

4- Hướng đi nào cho các ngân hàng Việt Nam?

Trước hết, các ngân hàng Việt Nam cần cải thiện quy mô vốn, năng lực quản lý và năng lực công nghệ nhằm đáp ứng các nhu cầu cạnh tranh và phát triển; xác định chiến lược kinh doanh hợp lý, cụ thể nhằm tạo ra bản sắc riêng và lợi thế cạnh tranh riêng; chú trọng đến quản trị khách hàng; thực hiện liên minh và công khai hóa thông tin về quản trị rủi ro để tiến tới áp dụng các thông lệ quốc tế về tiêu chuẩn an toàn vốn nhằm cải thiện khả năng cạnh tranh của mình.

Các ngân hàng Việt Nam không có cổ đông nước ngoài cũng cần nhìn nhận chính xác năng lực cạnh tranh thực tế và tiềm năng phát triển của mình để cân nhắc khả năng sáp nhập với các ngân hàng khác.

Thứ hai, Ngân hàng Nhà nước cần có sự đổi mới mạnh mẽ, thực hiện kiểm soát luồng vốn, tạo dựng một kết cấu hạ tầng tốt cho việc lưu chuyển tiền tệ, phân tích, dự báo những cơ chế tác động không thông suốt trong hệ thống ngân hàng, đồng thời nâng cao năng lực điều tiết thị trường, cũng như xác định một cơ chế tỷ giá với khuôn khổ, tránh để xảy ra những “cú sốc” trên thị trường tiền tệ.

Thứ ba, bên cạnh sự nỗ lực của các ngân hàng Việt Nam, Chính phủ cần có những biện pháp hỗ trợ để nuôi dưỡng các ngân hàng trong nước; xây dựng lộ trình để các ngân hàng Việt Nam (cả những ngân hàng có và chưa có cổ đông nước ngoài) có thời gian chuẩn bị “thế” và “lực”, đồng thời, đặc biệt chú ý đến hoạt động đầu tư trực tiếp của ngân hàng nước ngoài, độ “mở cửa” dịch vụ cho ngân hàng nước ngoài.

Khuyến khích (không bắt buộc) các ngân hàng nhỏ sáp nhập thông qua việc xây dựng lộ trình phát triển cho các ngân hàng Việt Nam và một hành lang pháp lý cho việc sát nhập, để nâng cao năng lực cạnh tranh so với các đối thủ nước ngoài.

Việc gia nhập WTO được xem như một đòn bẩy giúp cho hệ thống ngân hàng Việt Nam có bước chuyển biến rõ rệt, thích ứng nhanh hơn với những tác động từ bên ngoài nhưng cũng làm bộc lộ rõ nét hơn những hạn chế, bất cập và cả những thách thức. Nhận diện đầy đủ những thách thức đối với công tác quản lý vĩ mô của Ngân hàng nhà nước cũng như hoạt động kinh doanh của các ngân hàng thương mại là hết sức cần thiết để từ đó đưa ra những giải pháp đúng đắn nhằm khai thác tối đa lợi ích và giảm thiểu tác động của quá trình hội nhập.

II. Trong lĩnh vực bảo hiểm

Mở cửa thị trường bảo hiểm và tự do hóa dịch vụ bảo hiểm theo chuẩn mực quốc tế có gây biến động cho thị trường Bảo hiểm Việt Nam, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp bảo hiểm, ảnh hưởng đến quyền và lợi ích chính đáng của người tham gia bảo hiểm hay không, nhất là, khi bảo hiểm đang là một trong những dịch vụ tài chính nhạy cảm cao như hiện nay là vấn đề gây nên nhiều băn khoăn.

Sau 2 năm Việt Nam gia nhập WTO, có thể thấy rằng, cơ hội đem lại cho ngành bảo hiểm là rất nhiều, không chỉ góp phần đáng kể trong việc tăng doanh thu phí bảo hiểm và đáp ứng nhu cầu được tham gia bảo hiểm của mọi tầng lớp dân cư, mà còn tạo môi trường cạnh tranh, thúc đẩy các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước không ngừng tự hoàn thiện để tồn tại và phát triển. Đồng thời, cải thiện môi trường đầu tư, thu hút các luồng vốn vào thị trường bảo hiểm và nền kinh tế; thúc đẩy việc hoàn thiện cơ chế chính sách, tạo hành lang pháp lý đồng bộ, ổn định cho thị trường phát triển; cũng như góp phần đáng kể vào việc giải quyết công ăn việc làm cho xã hội.

Hội nhập kinh tế càng sâu rộng thì ảnh hưởng của nền tài chính, kinh tế toàn cầu tới Việt Nam càng lớn, càng nhanh. Cuối năm 2007, khủng hoảng tín dụng ở Mỹ, giá xăng dầu, sắt thép, lúa gạo tăng đột biến, những biến động bất thường của thị trường vàng, đô la, chứng khoán bất động sản... đã ảnh hưởng đến tình hình kinh tế - xã hội nói chung, và ngành bảo hiểm nói riêng. Tuy nhiên, những số liệu mới đây của thị trường bảo hiểm 3 tháng đầu năm 2008 cho thấy, doanh thu của bảo hiểm phi nhân thọ đạt 2.738 tỉ đồng (tăng 51,2% so với cùng kỳ năm ngoái); doanh thu bảo hiểm nhân thọ đạt 2.363 tỉ đồng (tăng 13,73% so với năm 2007), cho thấy ngành bảo hiểm vẫn tiếp tục tăng trưởng trước những biến động trên.

Sự tăng trưởng đó cũng phản ánh những quan điểm tích cực của Chính phủ Việt Nam trong việc phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam toàn diện, an toàn và lành mạnh, đáp ứng nhu cầu bảo hiểm cơ bản của nền kinh tế và dân cư; bảo đảm cho các tổ chức cá nhân được thụ hưởng những sản phẩm bảo hiểm đạt tiêu chuẩn quốc tế.

Để nâng cao năng lực Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, cần khẩn trương xây dựng và hoàn thiện Luật Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam, trình Quốc hội thông qua. Bên cạnh việc từng bước chuyển dần từ mô hình hoạt động của Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam sang hoạt động theo “mô hình giảm thiểu rủi ro”, tức là khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gặp rủi ro lớn, có nguy cơ giải thể, phá sản, Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam không chỉ đứng ra chi trả mà còn có thể áp dụng các biện pháp xử lý khác để giải quyết đổ vỡ, tiết kiệm, chi phí và tránh lây lan ảnh hưởng xấu tới sự an toàn của thị trường tài chính và cả nền kinh tế. Đồng thời, tăng cường tiến hành công tác kiểm tra, giám sát của Bảo hiểm tiền gửi đối với các tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi. Đây được xem là nội dung quan trọng để Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam có thể thực hiện được các nghiệp vụ khác trong các hoạt động của mình.

Cần xây dựng hàng rào kỹ thuật về tiêu chuẩn thành lập doanh nghiệp bảo hiểm và hoạt động kinh doanh bảo hiểm; hoàn thiện từng bước luật kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn phù hợp với cam kết WTO, phù hợp với chuẩn mực quốc tế quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm; hình thành bộ máy quản lý nhà nước về hoạt động kinh doanh bảo hiểm đủ mạnh để thực hiện việc hậu kiểm đạt kết quả cao; nâng cao chất lượng hoạt động của các doanh nghiệp bảo hiểm nhằm tăng năng lực cạnh tranh, khả năng hội nhập quốc tế sâu rông, phù hợp với mô hình phát triển doanh nghiệp bảo hiểm theo chuẩn mực quốc tế cũng như sự hợp tác hơn nữa giữa các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam..../.