Các kỳ đại hội là những mốc son vàng lịch sử quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam
TCCSĐT - Từ ngày 3 đến 7-2-1930, Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản họp tại bán đảo Cửu Long (Hương Cảng, Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc. Hội nghị nhất trí thành lập đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam, thông qua Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ vắn tắt của Đảng, Điều lệ tóm tắt của các hội quần chúng... Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam mang tầm vóc lịch sử như là Đại hội thành lập Đảng, đánh dấu bước chuyển biến quyết định của cách mạng Việt Nam.
Đại hội là kết quả của sự chuẩn bị đầy đủ về tư tưởng, chính trị và tổ chức; là sản phẩm của sự kết hợp giữa chủ nghĩa Mác – Lê-nin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Sự kiện đó được ghi nhận như một mốc son đỏ chói trên con đường phát triển của dân tộc ta. Cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước kéo dài mấy chục năm nay đã được giải quyết. Từ đây, cách mạng Việt Nam bước vào quỹ đạo mới của cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc trên lập trường của giai cấp công nhân.
Ngay sau khi ra đời, Ðảng đã lãnh đạo các tầng lớp nhân dân đứng lên đấu tranh tạo nên những cao trào cách mạng rộng lớn mà đỉnh cao của phong trào cách mạng những năm 1930 - 1931 là Xô-viết - Nghệ Tĩnh. Mặc dù bị thực dân Pháp thẳng tay đàn áp khốc liệt, dìm trong biển máu, nhưng phong trào đã khẳng định trên thực tế đường lối cách mạng Việt Nam do Ðảng ta đề ra là đúng đắn, quyền lãnh đạo cách mạng thuộc về Đảng Cộng Sản Việt Nam. Trong lúc cao trào cách mạng diễn ra sôi nổi ở trong nước thì Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Ðảng được triệu tập tại Hương Cảng (Trung Quốc) từ ngày 14 đến 31-10-1930 do đồng chí Trần Phú chủ trì. Hội nghị đã thông qua Nghị quyết về tình hình và nhiệm vụ cần kíp của Ðảng, Luận cương Chính trị của Ðảng do đồng chí Trần Phú khởi thảo, thông qua Ðiều lệ Ðảng và Ðiều lệ các tổ chức quần chúng. Theo chỉ thị của Quốc tế Cộng sản, Hội nghị quyết định đổi tên Ðảng Cộng sản Việt Nam thành Ðảng Cộng sản Ðông Dương; bầu Ban Chấp hanh Trung ương chính thức của Ðảng. Ðồng chí Trần Phú được bầu làm Tổng Bí thư đầu tiên của Đảng.
Kể từ đó đến nay, Đảng ta đã trải qua 10 kỳ Đại hội. Mỗi kỳ Đại hội Đảng là một dấu mốc lịch sử quan trọng ghi nhận những thắng lợi, thành tựu và những bài học kinh nghiệm cùng với sự trưởng thành về tư duy lý luận và hoạt động lãnh đạo của Đảng ta.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ I
Vượt qua cuộc khủng bố trắng khốc liệt, Ðảng ta và phong trào cách mạng không những không bị tiêu diệt mà cơ sở đảng, cơ sở quần chúng vẫn tồn tại và phát triển từ Trung ương đến địa phương. Ðồng chí Lê Hồng Phong, Ủy viên Ban Chấp hành Quốc tế Cộng sản, cùng các đồng chí lãnh đạo trong nước tổ chức khôi phục phong trào, tổ chức đảng, tiến hành chuẩn bị Ðại hội Ðảng.
Đại hội diễn ra từ ngày 27 đến ngày 31-3-1935 tại Ma Cao (Trung Quốc) do đồng chí Hà Huy Tập chủ trì với sự tham dự của 13 đồng chí đại biểu thay mặt gần 6 nghìn đảng viên đang hoạt động ở trong nước và ngoài nước. Ðại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương Ðảng gồm 13 đồng chí. Ðồng chí Nguyễn Ái Quốc được cử làm đại diện của Ðảng bên cạnh Quốc tế Cộng sản. Ðồng chí Lê Hồng Phong được bầu làm Tổng Bí thư của Ðảng. Tháng 7-1936, đồng chí Hà Huy Tập được cử làm Tổng Bí thư. Và sau đó, tháng 3-1938, đồng chí Nguyễn Văn Cừ được cử làm Tổng Bí thư của Ðảng, tháng 11-1940, Hội Nghị Trung ương 7, đồng chí Trường Chinh bầu quyềnTổng Bí thư).
Ðại hội lần thứ I của Ðảng đánh dấu sự khôi phục tổ chức đảng từ Trung ương đến địa phương, từ trong nước ra ngoài nước, thống nhất các phong trào đấu tranh cách mạng của giai cấp công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân dưới sự lãnh đạo của Ðảng.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ II
Sau Cách mạng Tháng Tám thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa non trẻ vừa ra đời đã đứng trước thử thách cực kỳ hiểm nghèo giặc đói, giặc dốt và giặc ngoại xâm. Trong khi đó, lực lượng mọi mặt của Nhà nước ta còn rất non yếu: vận mệnh của đất nước như “ngàn cân treo sợi tóc”. Song, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã kịp thời đề ra những chủ trương và quyết sách đúng đắn, toàn diện trên tất cả các mặt chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh, quốc phòng, khôn khéo loại dần kẻ thù, tranh thủ thời gian hòa bình, tích cực chuẩn bị điều kiện và lực lượng cho cuộc kháng chiến lâu dài. Bất chấp nguyện vọng của nhân dân ta và mặc dù chúng ta đã nhân nhượng, nhưng thực dân Pháp vẫn không từ bỏ dã tâm cướp nước ta lần nữa. Chúng ta càng nhân nhượng, thực dân Pháp càng lấn tới. Lịch sử đã đặt dân tộc ta trước một thử thách gay go mới, phải đứng lên bảo vệ nền độc lập của dân tộc.
Ngày 19-12-1946, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ra Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến, với quyết tâm “thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”… Cả dân tộc ta bước vào cuộc kháng chiến trường kỳ anh dũng dưới sự lãnh đạo của Ðảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Ðể tiếp tục phát triển đường lối kháng chiến, kiến quốc, Ðảng quyết định triệu tập Ðại hội Ðại biểu toàn quốc lần thứ II của Ðảng. Ðại hội họp tại xã Vinh Quang, huyện Chiêm Hóa (Tuyên Quang) từ ngày 11 đến 19-2-1951 với sự tham dự của 158 đại biểu chính thức, 53 đại biểu dự khuyết, thay mặt cho hơn 760 nghìn đảng viên. Ðại hội thảo luận và thông qua Báo cáo Chính trị và Báo cáo Bàn về cách mạng Việt Nam; Báo cáo về tổ chức và Ðiều lệ Ðảng và nhiều báo cáo bổ sung khác.
Ðại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 19 đồng chí Ủy viên chính thức và 10 đồng chí Ủy viên dự khuyết. Ðồng chí Hồ Chí Minh được bầu là Chủ tịch Ðảng, đồng chí Trường Chinh được bầu lại làm Tổng Bí thư.
Ðại hội lần thứ II của Ðảng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, đánh dấu bước phát triển mới của Ðảng ta, đề ra đường lối lãnh đạo cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Dưới ánh sáng của đường lối Đại hội lần thứ II của Đảng và các nghị quyết hội nghị Trung ương, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta, đẩy mạnh cuộc kháng chiến giành nhiều thắng lợi mà đỉnh cao là chiến thắng Điện Biên Phủ chấn động địa cầu, giải phóng hoàn toàn miền Bắc, tạo tiền đề vững chắc để tiếp tục cuộc cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ III
Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, cách mạng Việt Nam bước vào thời kỳ mới với đặc điểm là đất nước tạm chia làm hai miền với hai chế độ chính trị – xã hội khác nhau. Để kịp thời lãnh đạo cách mạng cả nước. Ðại hội Ðại biểu toàn quốc lần thứ III của Ðảng được tổ chức từ ngày 5 đến 10-9-1960 tại Thủ đô Hà Nội.
Tham dự Đại hội có 525 đại biểu chính thức và 51 đại biểu dự khuyết thay mặt cho hơn 50 vạn đảng viên trong cả nước. Nội dung của Đại hội như Chủ tịch Hồ Chí Minh nêu rõ: Ðại hội lần này là đại hội xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà... Ðại hội chỉ rõ nhiệm vụ cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc là nhiệm vụ quyết định nhất đối với sự phát triển của toàn bộ cách mạng nước ta, đối với sự nghiệp thống nhất nước nhà của nhân dân ta. Cách mạng miền Nam có vị trí rất quan trọng, quyết định trực tiếp sự nghiệp giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân chủ nhân dân trong cả nước. Chủ đề của Đại hội là “Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà”.
Đại hội đã bầu ra Ban Chấp hành Trung ương gồm 78 đồng chí, trong đó có 47 Ủy viên chính thức và 31 Ủy viên dự khuyết... Bộ chính trị gồm 11 đồng chí, Chủ tịch Hồ Chí Minh tiếp tục giữ cương vị Chủ tịch Đảng, đồng chí Lê Duẩn được bầu làm Bí thư thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Với đường lối cách mạng đúng đắn của Ðảng, với tinh thần chiến đấu dũng cảm ngoan cường của toàn dân, toàn quân ta, cách mạng nước ta đã giành được những thắng lợi vô cùng to lớn giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IV
Bằng cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975 mà đỉnh cao là Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, dưới sự lãnh đạo của Ðảng, nhân dân ta đã làm nên chiến thắng vĩ đại: Giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất đất nước. Cách mạng Việt Nam chuyển sang giai đoạn mới, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Đại hội diễn ra từ ngày 14 đến ngày 20-12-1976 tại Hà Nội.
Tham dự đại hội có 1.008 đại biểu chính thức thay mặt cho 1.550.000 đảng viên của cả hai miền đất nước, cùng với và 29 đoàn đại biểu quốc tế dự Ðại hội. Báo cáo Chính trị của Ðại hội nêu rõ: Nhân dân ta đã phải đương đầu với cuộc chiến tranh xâm lược lớn nhất và ác liệt nhất của đế quốc Mỹ để giải phóng miền Nam, bảo vệ miền Bắc, đã chiến đấu anh dũng và thắng lợi vẻ vang. Thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mãi mãi ghi vào lịch sử dân tộc những trang chói lọi nhất và đi vào lịch sử thế giới như một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX.
Ðại hội xác định đường lối cách mạng chủ nghĩa xã hội là: nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hóa, trong đó cách mạng khoa học kỹ thuật là then chốt…Ðại hội đã đề ra đường lối phát triển kinh tế là: Ðẩy mạnh công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa, xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, đưa nền kinh tế nước ta đi từ sản xuất nhỏ lên sản xuất lớn xã hội chủ nghĩa…
Đại hội đã quyết định đổi tên Đảng Lao Động Việt Nam thành Đảng Cộng sản Việt Nam. Đại hội, bổ sung Điều lệ Đảng, thay chức danh Bí thư thứ nhất là Tổng Bí thư, bỏ chức danh Chủ tịch Đảng... Ðại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 101 Ủy viên chính thức và 32 Ủy viên dự khuyết. Bộ Chính trị gồm 14 Ủy viên chính thức và 3 Ủy viên dự khuyết; bầu Ban Bí thư gồm 9 đồng chí. Ðồng chí Lê Duẩn được bầu làm Tổng Bí thư của Ðảng.
Ðại hội lần thứ IV của Ðảng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng: Đại hội tổng kết cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Ðại hội toàn thắng của sự nghiệp giải phóng dân tộc, thống nhất nước nhà, Ðại hội của cả nước đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ V
Dưới ánh sáng Nghị quyết Ðại hội lần thứ IV của Ðảng, toàn Ðảng, toàn dân và toàn quân ta đã ra sức khôi phục, cải tạo và phát triển kinh tế giành thắng lợi trên nhiều lĩnh vực. Song nền kinh tế - xã hội gặp nhiều khó khăn, thách thức mới để lãnh đạo đất nước vượt qua khó khăn đó, Đại hội V của đảng được triệu tập
Đại hội diễn ra từ ngày 27 đến ngày 31-3-1982.Tham dự Đại hội có 1033 đại biểu thay mặt 1.727.000 đảng viên hoạt động trong 35.146 đảng bộ cơ sở. Đại hội đã đánh giá toàn diện những thắng lợi mà Ðảng và nhân dân ta giành được trong công cuộc xây dựng, bảo vệ Tổ quốc từ sau đại thắng mùa Xuân 1975. Ðại hội đã chỉ ra nguyên nhân khách quan của khó khăn, yếu kém, nhất là sự mất cân đối nghiêm trọng của nền kinh tế quốc dân, đồng thời, thẳng thắn nêu lên nguyên nhân khách quan và chủ quan, trong đó nhấn mạnh nguyên nhân chủ quan là do những sai lầm về lãnh đạo và quản lý kinh tế, quản lý xã hội. Khẳng định tiếp tục thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa mà Ðại hội lần thứ IV của Ðảng.
Ðại hội lần thứ V của Ðảng đã đề ra những nhiệm vụ chủ yếu về kinh tế - xã hội trong năm năm (1981-1985) và những năm 80. Trong đó mục tiêu kinh tế - xã hội những năm 80 là: Ðáp ứng những nhu cầu cấp bách và thiết yếu nhất, dần dần ổn định, tiến tới cải thiện một bước đời sống vật chất và văn hóa của nhân dân; tiếp tục xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội; thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu…
Đại hội xác định hai nhiệm vụ chiến lược của nước ta: “Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và sẵn sàng chiến đấu, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”. Hai nhiệm vụ chiến lược đó quan hệ mật thiết với nhau.
Ðại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 116 đồng chí Ủy viên chính thức, 36 đồng chí Ủy viên dự khuyết. Ban Chấp hành đã bầu Bộ Chính trị gồm 13 Ủy viên chính thức và hai Ủy viên dự khuyết. Ðồng chí Lê Duẩn được Ban Chấp hành Trung ương bầu lại làm Tổng Bí thư của Ðảng. Ngày 10-7-1986, Tổng Bí thư Lê Duẩn từ trần. Ban Chấp hành Trung ương họp phiên đặc biệt vào ngày 14-7-1986, bầu đồng chí Trường Chinh làm Tổng Bí thư của Ðảng.
Đại hội lần thứ V của Đảng là kết quả của một quá trình làm việc nghiêm túc, tập hợp ý kiến của toàn Đảng để đề ra nhiệm vụ, phương hướng… nhằm giải quyết những vấn đề gay gắt nóng bỏng đang đặt ra của cách mạng Việt Nam. Đại hội đánh dấu một bước chuyển biến mới về sự lãnh đạo của Đảng trên con đường đấu tranh “Tất cả vì Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, vì hạnh phúc của nhân dân”.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VI
Khởi xướng và lãnh đạo sự nghiệp đổi mới đất nước, Ðại hội lần thứ VI của Ðảng diễn ra từ ngày 15 đến 18-12-1986, tại Thủ đô Hà Nội. Dự Ðại hội có 1.129 đại biểu thay mặt cho gần 1,9 triệu đảng viên trong cả nước.Trong diễn văn khai mạc Ðại hội, đồng chí Nguyễn Văn Linh đã nêu rõ: "Ðể làm chuyển biến tình hình, Ðại hội lần thứ VI này phải đánh dấu sự đổi mới của Ðảng ta về tư duy, phong cách, tổ chức và cán bộ. Ðó là đòi hỏi bức thiết của đất nước.
Với tinh thần 'nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật', Ðại hội đã nghiêm túc kiểm điểm những mặt yếu kém, phân tích sâu sắc những sai lầm và khuyết điểm, chỉ rõ nguyên nhân, đề ra biện pháp khắc phục, rút ra những bài học kinh nghiệm. Ðại hội khẳng định quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Ðảng theo tinh thần cách mạng và khoa học. Đại hội VI đã đưa ra quan điểm mới về cải tạo xã hội chủ nghĩa dựa trên 3 nguyên tắc: Nhất thiết phải theo quy luật về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất để xác định bước đi và hình thức thích hợp; Phải xuất phát từ thực tế của nước ta và là sự vận dụng quan điểm của Lê-nin coi nền kinh tế có cơ cấu nhiều thành phần là một đặc trưng của thời kỳ quá độ. Trong công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa phải xây dựng quan hệ sản xuất mới trên cả 3 mặt xây dựng chế độ công hữu về tư liệu sản xuất, chế độ quản lý và chế độ phân phối xã hội chủ nghĩa…
Ðại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương Ðảng khóa VI gồm 124 Ủy viên chính thức và 49 Ủy viên dự khuyết. Ban Chấp hành Trung ương đã họp Hội nghị lần thứ nhất bầu Bộ Chính trị, Ban Bí thư. Ðồng chí Nguyễn Văn Linh được bầu làm Tổng Bí thư của Ðảng. Các đồng chí Trường Chinh, Phạm Văn Ðồng, Lê Ðức Thọ được giao trọng trách Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Ðảng.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VII
Tiếp tục thực hiện nhiệm vụ đưa đất nước tiến lên xã hội chủ nghĩa đi theo đường lối đổi mới”, Ðại hội lần thứ VII của Ðảng tiến hành từ ngày 24 đến 27-6-1991, tại Hà Nội. Dự Ðại hội có 1.176 đại biểu thay mặt hơn 2.155.022 đảng viên trong cả nước. Ðại hội khẳng định công cuộc đổi mới đất nước đã đạt được những thành tựu bước đầu rất quan trọng. Tình hình chính trị đất nước ổn định, nền kinh tế có những chuyển biến tích cực; đạt được những tiến bộ rõ rệt trong việc thực hiện các mục tiêu của ba chương trình kinh tế…
Đại hội VII là Đại hội của trí tuệ - đổi mới, dân chủ - kỷ cương - đoàn kết; Đại hội đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; Đại hội cũng đã thông qua Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2000; Báo cáo xây dựng Đảng và sửa đổi Điều lệ Đảng (Điều lệ Đảng sửa đổi). Đại hội một lần nữa khẳng định Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc. Khẳng định, Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản.
Đại hội VII có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, không chỉ quyết định những nhiệm vụ chính trị nặng nề trước mắt, mà cả con đường, bước đi của cách mạng nước ta trong những thập niên tiếp theo. Đó là quyết tâm đẩy mạnh công cuộc đổi mới toàn diện, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, con đường mà Bác Hồ, Đảng và nhân dân ta đã lựa chọn.
Ðại hội bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 146 đồng chí. Ban Chấp hành Trung ương bầu Bộ Chính trị gồm 13 đồng chí, (Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 6 khóa VII tháng 11-1993 đã bầu bổ sung thêm 4 Ủy viên Bộ Chính trị).
Ðồng chí Ðỗ Mười được bầu làm Tổng Bí thư của Ðảng. Các đồng chí: Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Ðồng, Võ Chí Công được giao trọng trách Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Ðảng.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
Với chủ đề: Tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Đại hội diễn ra từ ngày 28-6 đến ngày 1-7-1996 tại Hà Nội. Dự Đại hội có 1.198 đảng viên đại diện cho hơn 2 triệu đảng viên trong cả nước. Đại hội tổng kết chặng đường 10 năm đổi mới, khẳng định đã đạt được những thắng lợi to lớn: nước ta đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, nhưng một số mặt còn chưa vững chắc, rút ra một số bài học chủ yếu và xác định rõ giai đoạn 1996-2000 là bước rất quan trọng của thời kỳ phát triển mới Nhiệm vụ của đất nước ta được Đại hội xác định là thực hiện đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, quá độ lên chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Đại hội“có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, đánh dấu cột mốc phát triển mới trong tiến trình phát triển của cách mạng nước ta”. Đại hội VIII của Đảng là Đại hội tiếp tục đổi mới vì sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Đại hội đã bầu BCH T.Ư gồm 170 ủy viên. Bộ Chính trị gồm 19 đồng chí. Đồng chí Đỗ Mười được bầu lại làm Tổng Bí thư (sau đó, tại Hội nghị Ban Châp hành Trung ương lần thứ 4 khóa VIII - tháng 12-1997, đồng chí Lê Khả Phiêu đã được bầu làm Tổng Bí thư).
Các đồng chí Nguyễn Văn Linh, Phạm Văn Đồng, Võ Chí Công làm Cố vấn Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX
Với chủ đề: Phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, khẩu hiệu hành động: “Trí tuệ, Dân chủ, Đoàn kết, Đổi mới”. Đại hội lần thứ IX của Đảng họp từ ngày 19-4 đến 22-42001 tại Hà Nội. Dự Đại hội có 1.168 đại biểu thay mặt cho hơn 2,4 triệu đảng -viên trong toàn Đảng
Đại hội có nhiệm vụ nhìn lại chặng đường lịch sử hơn 70 năm cách mạng Việt Nam; tổng kết 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng VIII, 15 năm đổi mới đất nước, 10 năm thực hiện Chiến lược kinh tế - xã hội; rút ra bài học kinh nghiệm sâu sắc từ đó phát triển và hoàn thiện đường lối cách mạng cho thời kỳ tới là phấn đấu nâng cao hơn nữa năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, động viên và phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Từ đó phát triển và hoàn thiện đường lối, định ra chiến lược phát triển đất nước trong hai thập kỷ đầu của thế kỷ XXI.
Đại hội IX của Đảng có ý nghĩa trọng đại mở đường cho đất nước ta nắm lấy cơ hội, vượt qua thách thức tiến vào thế kỷ mới, thiên niên kỷ mới, thực hiện mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương khoá IX gồm 150 Ủy viên. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương đã bầu Bộ Chính trị gồm 13 đồng chí, Ban Bí thư gồm 9 đồng chí. Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Đại hội IX của Đảng có ý nghĩa trọng đại mở đường cho đất nước ta nắm lấy cơ hội, vượt qua thách thức tiến vào thế kỷ mới, thiên niên kỷ mới, thực hiện mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương khoá IX gồm 150 Ủy viên. Hội nghị lần thứ nhất Ban Chấp hành Trung ương đã bầu Bộ Chính trị gồm 13 đồng chí, Ban Bí thư gồm 9 đồng chí. Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng.
Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ X
Đại hội diễn ra từ ngày 18 đến ngày 25-4-2006 tại Thủ đô Hà Nội.
Dự Đại hội có 1.176 đại biểu thay mặt cho hơn 3,1 triệu đảng viên trong toàn Đảng. Đây là Đại hội của trí tuệ, đổi mới, đoàn kết và phát triển bền vững.
Chủ đề của Đại hội là: "Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển".
Đại hội X của Đảng có nhiệm vụ nhìn thẳng vào sự thật để kiểm điểm, đánh giá khách quan, toàn diện thành tựu và những yếu kém, khuyết điểm, đồng thời rút ra những bài học kinh nghiệm qua việc thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm (2001 – 2005), chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 10 năm (2001-2010)…..
Đại hội X là không chỉ nhìn lại 5 năm sau Đại hội IX mà còn tổng kết cả 20 năm thực hiện đường lối đổi mới về mọi mặt, trong đó có lĩnh vực đối ngoại. Đại hội đã khẳng định đường lối đó “đúng đắn, sáng tạo, phù hợp thực tiễn Việt Nam”; từ đó tiếp tục phát triển và hoàn thiện đường lối, quan điểm, định ra phương hướng, mục tiêu, nhiệm vụ phát triển đất nước 5 năm tới (2006-2010); phương hướng, nhiệm vụ xây dựng Đảng; bổ sung sửa đổi một số điểm trong Điều lệ Đảng….
Một trong những quan điểm mới của Đảng tại Đại hội lần này là. Việc Đại hội ra Nghị quyết cho phép Đảng viên của Đảng được làm kinh tế tư nhân là bước tiến quan trọng trong nhận thức của Đảng sau 20 năm đổi mới, thể hiện bước đột phá trong việc đổi mới tư duy của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Các văn kiện được thông qua tại Đại hội lần này là kết tinh trí tuệ và ý chí của toàn Đảng, toàn dân, là sự tổng kết sâu sắc thực tiễn và lý luận 20 năm đổi mới để tiếp tục hoàn thiện và phát triển đường lối, quan điểm đổi mới trong giai đoạn cách mạng hiện nay của đất nước.
Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Trung ương gồm 160 Ủy viên chính thức và 21 ủy viên dự khuyết, Bộ Chính trị gồm 14 đồng chí và Ban Bí thư có 8 đồng chí.
Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu lại làm Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X.
|
Đại hội |
Thời gian |
Địa điểm |
Số đại biểu |
Số đảng viên |
||
|
Lần thứ I |
Từ ngày 27 đến ngày 31-3-1935 |
Ma Cao (Trung Quốc) |
13 |
600 | ||
|
Lần thứ II |
Từ ngày 11 đến ngày 19-2-1951 |
Tuyên Quang |
158 (53 dự khuyết) |
766.349 | ||
|
Lần thứ III |
Từ ngày 5 đến ngày 12-9-1960 |
Hà Nội |
525 (51 dự khuyết) |
500.000 | ||
|
Lần thứ IV |
Từ ngày 14 đến ngày 20-12-1976 |
Hà Nội |
1008 |
1.550.000 | ||
|
Lần thứ V |
Từ ngày 27 đến ngày 31-3-1982 |
Hà Nội |
1033 |
1.727.000 | ||
|
Lần thứ VI |
Từ ngày 15 đến ngày 18-12-1986 |
Hà Nội |
1129 |
2.109.613 | ||
|
Lần thứ VII |
Từ ngày 24 đến ngày 27-6-1991 |
Hà Nội |
1176 |
2.155.022 | ||
|
Lần thứ VIII |
Từ ngày 28-6 đến ngày 1-7-1996 |
Hà Nội |
1198 |
2.130.000 | ||
|
Lần thứ IX |
Từ ngày 19-4 đến ngày 22-4-2001 |
Hà Nội |
1168 |
2.479.719 | ||
|
Lần thứ X |
Từ ngày 18-4 đến ngày 25-4-2006 |
Hà Nội |
1176 |
3.100.000 | ||
Bế mạc Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương (khóa X)  (10/01/2011)
Tiếp tục phát huy tinh thần trách nhiệm cao trước Đảng, trước nhân dân  (10/01/2011)
Từ “con rồng kinh tế” đến “con rồng quân sự”  (09/01/2011)
Từ “con rồng kinh tế” đến “con rồng quân sự”  (09/01/2011)
Khai mạc Hội nghị Trung ương 15 (khóa X)  (09/01/2011)
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Ba đột phá chiến lược trong mô hình tăng trưởng mới của Việt Nam
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trong tiến trình chuyển đổi năng lượng công bằng ở Việt Nam
- Bảo đảm quyền trẻ em trong mô hình chính quyền địa phương 2 cấp: Thuận lợi, thách thức và giải pháp
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm