Bản Di chúc lịch sử và sự thống nhất hoàn hảo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề con người
TCCSĐT - Đã 40 năm, cứ mỗi độ Thu về, trong mỗi con người Việt Nam lại ngùi ngùi một niềm thương nhớ Chủ tịch Hồ Chí Minh. Người đã ra đi vào cõi vĩnh hằng nhưng di sản tư tưởng và tinh thần lớn lao để lại cho dân tộc Việt Nam là vô cùng to lớn. Nó vẫn mãi là ngọn cờ tỏa sáng và rọi chiếu con đường đi lên của dân tộc. Một trong những di sản to lớn đó là bản Di chúc lịch sử với những lời dặn lại từ trái tim văn hóa và trí tuệ Việt Nam nhân hậu và đầy tâm huyết.
Những lời dặn lại từ một trái tim đầy tâm huyết và nhân hậu
Từ tháng 5-1965, nhân dịp ngày sinh lần thứ 75, khi Chủ tịch Hồ Chí Minh nhận thấy tuổi tác của mình “càng cao” và sức khỏe “càng giảm”, Người đã khởi thảo “Tài liệu tuyệt đối bí mật”. Những năm tiếp theo, cũng vào dịp sinh nhật, Người lại dành ít thì giờ để đọc lại, suy ngẫm, chỉnh sửa và bổ sung những "lời dặn lại" mai sau trước chuyến đi xa vào “thế giới của người hiền”. Đó chính là bản Di chúc lịch sử của Người và đã trở thành di sản vô giá cho dân tộc.
Đi ngược thời gian, chúng ta thấy rằng, vào thời điểm mà Bác kính yêu của chúng ta đã cảm nhận được quy luật của tạo hóa về lẽ sinh tử đời người trong khi cả dân tộc đang phải đối mặt với chiến tranh, hy sinh mất mát, trong cảnh mưa bom bão đạn... lại thêm biết bao công việc bộn bề, nhưng Bác vẫn rất ung dung tự tại, ý thức một cách tích cực về bản thân và tự tin vào tương lai của dân tộc để trao gửi lại những suy tư trĩu nặng, khát vọng bỏng cháy nhưng cũng là niềm tin tất thắng về tự do cho đất nước, hạnh phúc cho nhân dân.
Trong Di chúc, khát vọng và niềm tin tất thắng về cuộc chiến đấu chính nghĩa của nhân dân ta được Người nhắc đến nhiều lần: "Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc chắn". Và, dù phải hy sinh nhiều của, nhiều người, nhưng "Tổ quốc ta nhất định sẽ thống nhất", "Đồng bào Nam Bắc nhất định sẽ sum họp một nhà". Bác chỉ viết có vài câu nhưng chữ nhất định được lặp lại trong từng câu, thể hiện khát vọng cháy bỏng và niềm tin tưởng tuyệt đối của Người vào thắng lợi của nhân dân ta. Đó là niềm tin thắng lợi không gì lay chuyển đối với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước của dân tộc, bắt nguồn từ thực tiễn chiến đấu, từ khối đại đoàn kết, thống nhất của cả dân tộc, sự hy sinh quên mình của nhiều thế hệ, sự đồng tình, ủng hộ, giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa và toàn thể nhân dân tiến bộ, yêu chuộng hoà bình trên thế giới. Những lời căn dặn cuối cùng của Người trong bản Di chúc thể hiện sự kế thừa và phát triển rực rỡ truyền thống độc lập, tự chủ của dân tộc ta. Di chúc là tác phẩm cuối cùng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thể hiện khát vọng độc lập dân tộc của Người nhưng cũng là tác phẩm mở ra một thời kỳ mới: thời kỳ nhân dân Việt Nam tiếp tục thực hiện ý chí, khát vọng độc lập, thống nhất đất nước.
Giờ đây, mỗi khi lật giở từng trang bản thảo, bút tích của Di chúc qua những lần chỉnh sửa, bổ sung, chúng ta như vẫn thấy một Hồ Chí Minh đang cẩn trọng cân nhắc từng ý, từng lời, từng việc để dặn dò lại, và chúng ta luôn cảm nhận Người vẫn ở bên, dõi theo bên cạnh và đồng hành cùng dân tộc trong mỗi bước đi.
Trong suốt cuộc đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ bền bỉ đấu tranh cho độc lập, tự do của Tổ quốc Việt Nam, mà Người còn hiến dâng cho cuộc chiến đấu vì quyền của con người yêu chuộng hoà bình và công lý trên thế giới. Điều ấy không chỉ các nhà chính khách mà các bậc trí giả và thậm chí những người không cùng quan điểm chính trị đều nhận ra ở Bác Hồ của chúng ta như thế. Rằng, "Tất cả những người có lương tri trên thế giới đều nhìn thấy ở Nguyễn Ái Quốc - "Người yêu nước"- "Người chiếu sáng" và là "Vị Chủ tịch kính mến”” (lời của Mighen Đêxtêphanô tại Hội thảo quốc tế về Hồ Chí Minh, do UNESCO và Ủy ban Khoa học Xã hội Việt Nam tổ chức năm 1990). Vì vậy, bản Di chúc của Người không chỉ là trầm tích được tụ kết từ tư tưởng, văn hoá, tâm hồn, đạo đức, tình cảm Việt Nam, mà còn được hoà trộn từ tinh hoa văn hoá của nhân loại, đồng thời, trở thành và thuộc về tài sản của nhân loại yêu chuộng hoà bình.
Là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta, qua thực tiễn cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấu hiểu rằng, mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều gắn liền với sự trưởng thành, vững mạnh của Đảng, nên Người đã dành những điều "trước hết” để nói về Đảng và yêu cầu "việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng". Yếu tố nội sinh, tố chất nội lực làm nên sức mạnh của Đảng chính là sự đoàn kết, thống nhất một ý chí trong Đảng.
Trên thực tế, cũng có thời điểm, có những đảng viên, vì nhiều lý do khác nhau, đã quên đi lý tưởng và lời thề thực hiện lý tưởng cộng sản chủ nghĩa, xa rời đạo đức cách mạng, phá hoại khối đoàn kết trong Đảng. Vì vậy, Người nhấn mạnh: "Các đồng chí từ Trung ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của mắt mình", đồng thời, yêu cầu "trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình", là nhiệm vụ trọng yếu, là yêu cầu bức thiết của một Đảng cầm quyền. Có như vậy thì "dù công việc to lớn mấy, khó khăn mấy chúng ta cũng nhất định thắng lợi". Và, có như vậy, Đảng mới thật sự trong sạch, mới "xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân". Do đó, mỗi cán bộ, đảng viên, đoàn viên và thanh niên phải hết lòng tận trung với nước, tận hiếu với dân, phải thấm nhuần và nâng cao "đạo đức cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư", phải sống với nhau có nghĩa, có tình. Cũng theo Người, để làm mực thước cho dân, mỗi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên tiến hành tự phê bình và phê bình, trên cơ sở "tình đồng chí thương yêu lẫn nhau”, làm cho điều thiện được dung dưỡng, sinh sôi, điều xấu, điều ác thui chột, để tiến bộ và vững vàng trước mọi cám dỗ, thử thách.
Sự thống nhất hoàn hảo trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề con người, nhất là việc chăm lo bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau
Sau những điều tâm huyết về Đảng, những “lời dặn lại” của Người đã nhắc đến việc chăm lo lực lượng kế cận của cách mạng. Người ghi nhận và khen ngợi sự đóng góp quan trọng của đoàn viên, thanh niên, phụ nữ, thiếu nhi… trong đấu tranh cách mạng và dành những tình cảm ấm áp, thiết tha cho thế hệ trẻ. Người đặt ra yêu cầu cao đối với Đảng về việc "Đảng cần phải chăm lo giáo dục đạo đức cách mạng cho họ, đào tạo họ thành những người thừa kế xây dựng xã hội chủ nghĩa vừa "hồng" vừa "chuyên””. Theo Người, "bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là một việc rất quan trọng và rất cần thiết". Bởi, không chăm lo cho thế hệ trẻ, không tạo dựng một lực lượng kế tục có đức và có tài, sẽ không có những con người xã hội chủ nghĩa để xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, và, sâu xa hơn, không thể giữ gìn được thành quả cách mạng mà biết bao thế hệ cha anh đã đổ xương máu để tạo dựng nên. Nó cũng đồng nghĩa và nhất quán với tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh lúc sinh thời là mất tự do, độc lập là mất tất cả.
Bồi dưỡng và chăm lo, dành những gì là tốt nhất cho thế hệ sau là kết tinh từ tư tưởng lớn và mục đích bao trùm trong cuộc đời hoạt động cách mạng của Chủ tịch Hồ Chí Minh - xuất phát từ con người và cuối cùng lại trở về với con người. Như một lẽ tự nhiên, trong những lời để lại, Người đặc biệt quan tâm đến vấn đề con người và những "việc làm vì hạnh phúc của con người". Cũng như quan điểm của chủ nghĩa Mác, đối với Người, không có con người chung chung mà chỉ có con người cụ thể, con người xã hội. Trước hết và trong bối cảnh lịch sử cụ thể của một đảng cầm quyền thì việc chăm lo cho con người là chăm lo cho đồng bào mình, dân tộc mình. Vì vậy, Người đã chỉ rõ, sau khi đất nước trải qua những năm dài kháng chiến, việc hàn gắn những vết thương chiến tranh là công việc nặng nề, phức tạp nhưng cũng rất vẻ vang, nên Đảng cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân lao động ở mọi miền đất nước. Người đề nghị sau khi thống nhất đất nước, Đảng, Chính phủ thực hiện miễn thuế nông nghiệp một năm, để "đồng bào hỉ hả, mát dạ, mát lòng, thêm phấn khởi, đẩy mạnh sản xuất". Thực hiện ước nguyện này của Bác, ngày 30-6-1990, Nghị quyết về việc miễn thuế nông nghiệp theo Di chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh đã được thông qua tại Kỳ họp thứ bảy, Quốc hội khoá VIII.
Người còn nhắc nhở việc xây dựng những vườn hoa, bia tưởng niệm các liệt sĩ, "để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước của nhân dân ta" và cho thế hệ mai sau. Đồng thời, để tỏ lòng tri ân những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình; những thương binh, liệt sĩ cùng cha mẹ, vợ con của họ; những chiến sĩ trẻ, phụ nữ, thanh niên xung phong…, Người mong mỏi Đảng và các cấp chính quyền chăm lo, tạo điều kiện giúp họ được sống yên ổn, có công việc làm ăn thích hợp, để góp sức mình cho công cuộc xây dựng lại đất nước. Với những con người từng lầm đường, lạc lối, hoặc là nạn nhân của chế độ cũ, dù là ai, họ cũng mang dòng máu Việt, có cùng nguồn cội, nên lấy lòng khoan dung độ lượng, "cải tạo họ, giúp họ trở nên những người lao động lương thiện". Điều này thể hiện một trái tim Hồ Chí Minh bao dung độ lượng và nhân hậu biết bao.
Như một cương lĩnh hành động cho một Đảng, những chỉ dẫn của Người trong tài liệu tuyệt đối bí mật được toàn Đảng, toàn quân và toàn dân ta đồng tâm thực hiện. Chủ tịch Hồ Chí Minh thấu hiểu, với một Đảng cầm quyền, việc quan tâm đến lợi ích hằng ngày của mỗi người dân chính là động lực mạnh mẽ và hữu hiệu nhất để thực hiện khát vọng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Suốt một đời yêu thương nhân dân, sống thanh bạch và giản dị, khi ra đi, tiếc nuối lớn nhất của Người là "Suốt đời tôi hết lòng hết sức phục vụ Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân. Nay dù phải từ biệt thế giới này, tôi không có điều gì phải hối hận, chỉ tiếc là tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa". Sự nhất quán trong tư tưởng đạo đức Hồ Chí Minh là chủ nghĩa nhân văn, lấy con người làm trung tâm. Nhân văn không gì khác hơn là sự quan tâm chăm lo cho con người, giải phóng con người, hướng tới sự tiến bộ của con người.
Trước lúc đi xa, Bác đã để lại: "muôn vàn tình thân yêu cho toàn dân, toàn Đảng, cho toàn thể bộ đội, cho các cháu thanh niên và nhi đồng", và "gửi lời chào thân ái đến các đồng chí, các bầu bạn và các cháu thanh niên, nhi đồng quốc tế". Trong muôn vàn tình thương yêu đó, Bác “nâng niu và chia đều cho hết thảy”, không để sót ai, không quên một ai, nhưng đặc biệt nhất vẫn là lớp trẻ, lớp cách mạng đời sau, tương lai của đất nước. Trong bản Di chúc, viết tháng 5-1965, khi nói đến nhân dân lao động, Người yêu cầu Đảng "cần phải có kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hoá, nhằm không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân". Tháng 5-1968, khi sửa Di chúc, Bác đã viết thêm: "Đầu tiên là công việc đối với con người”. Chủ tịch Hồ Chí Minh bắt đầu hoạt động cách mạng với những khái niệm "con người và quyền con người" và khi khép lại cuộc đời mình cũng với khái niệm "con người". Coi việc xây dựng và bồi dưỡng con người là một hằng số bảo đảm cho sự trường tồn của đất nước, của dân tộc. Tuy ở mỗi thời điểm mang một nội dung khác nhau, nhưng tựu trung, Người nói: "Cả đời tôi chỉ có một mục đích là phấn đầu cho quyền lợi của Tổ quốc và hạnh phúc của quốc dân. Những khi tôi phải ẩn nấp nơi núi non, hoặc ra vào chốn tù tội, xông pha sự hiểm nghèo, là vì mục đích đó".
Về tầm quan trọng của vấn đề con người trong tư tưởng Hồ Chí Minh, giáo sư Trần Văn Giàu nhận xét: "Tầm cỡ của một hiền triết chưa chắc ở chỗ giải quyết mối tương quan giữa tồn tại và tư tưởng, ở chỗ xác định thế giới là thực tại hay ảo ảnh, khả tri hay bất khả tri, ở chỗ lựa chọn giáo điều quen thuộc hay sáng tạo mới lạ; mà chung quy là ở mức quan tâm đến con người, con người thật, đang sống trong quả đất này là chắc chắn còn sống lâu dài đến vô tận thời gian, lấy đó làm trung tâm của mọi suy nghĩ và chủ đích của mọi hành động. Cụ Hồ thuộc loại hiền triết đó".
Khi quan tâm đến mục tiêu xây dựng, bồi dưỡng và giáo dục con người, quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh rất biện chứng và khoa học ở chỗ, phải thấy được bản chất con người sinh học để đề ra chính sách xã hội đối với con người, tức là phải bảo đảm được những quyền cơ bản nhất là quyền được sống, được đáp ứng những nhu cầu cụ thể, trước hết là có ăn, có mặc, có nhà ở, được chữa bệnh và được học hành. Đó là những nhu cầu tối thiểu, đồng thời cũng là những quyền tối thiểu đối với con người. Chính cái cụ thể, cái tối thiểu thiết thực và giản dị nhất ấy lại là sự biểu đạt của nội hàm cái lớn lao, cái vô giá và sâu xa nhất của cuộc sống con người, rộng ra là sự phát triển và hoàn thiện của đời sống dân tộc, của một quốc gia và xã hội người. Chính vì vậy, ngay sau ngày tuyên bố độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "Chương trình nội chính của Chính phủ và của quân dân ta chỉ có 3 điều mà thôi:
a) Tăng gia sản xuất để làm cho dân ai cũng đủ mặc đủ ăn; b) Mở mang giáo dục để ai nấy cũng đều biết đọc, biết viết; c) Thực hành dân chủ để làm cho dân ta ai cũng được hưởng quyền dân chủ tự do".
Cái đích của tự do, độc lập, của Nhà nước dân chủ nhân dân là tiến tới thực hiện các mục tiêu đó. Bởi theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, nếu nước được tự do, độc lập mà người dân không được hưởng hạnh phúc, hưởng những quyền cơ bản của con người thì độc lập, tự do chẳng có nghĩa lý gì.
Từ chỗ nhận thức rõ vai trò, bản chất con người và mục tiêu xây dựng, bồi dưỡng con người mới xã hội chủ nghĩa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt cả niềm tin vào con người, vào nhân dân và dân tộc mình, nâng niu, trân trọng từng cá nhân con người, không quản ngại khó khăn, nhẫn nại thức tỉnh, giác ngộ, đào tạo con người. Đây chính là bí quyết của mọi thắng lợi trong sự nghiệp cách mạng.
Lấy gương người tốt, việc tốt để hằng ngày giáo dục lẫn nhau là một trong những cách tốt nhất để xây dựng Đảng, xây dựng các tổ chức cách mạng, xây dựng con người mới, cuộc sống mới. Điều đó nói lên thái độ nhất quán và tinh thần bao dung của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với con người. Cũng từ đó, Người đề ra chủ trương "bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau" và chiến lược "trồng người" của Đảng và Nhà nước ta.
Di sản Hồ Chí Minh, trong đó có bản Di chúc lịch sử đã soi rọi và thắp mãi niềm tin cho dân tộc ta qua 40 năm, kể từ khi Người ra đi vào cõi vĩnh hằng. Sự nghiệp đổi mới đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo đã hơn 20 năm. Khoảng thời gian lịch sử đó đủ để sinh thành, dung dưỡng một thế hệ người Việt Nam mới. Đất nước đã đạt được những thành tựu vĩ đại theo mong muốn của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong Di chúc. Đảng ta đã khởi xướng và dẫn dắt công cuộc đổi mới, đề ra chủ trương chăm lo đến quyền lợi vật chất và tinh thần của con người, tạo nên cuộc sống có chất lượng cao; lãnh đạo thực thi chính sách giáo dục - đào tạo, bồi dưỡng con người ngày càng trở nên hoàn thiện. Đó là chủ trương, chính sách “trồng người”, bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau mà Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức coi trọng. Có thể nói rằng, những mong muốn cháy bỏng và tâm huyết trong ước nguyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ sau khi Người ra đi đã và đang trở thành hiện thực trong đời sống xã hội./.
Thế giới nghiên cứu về Việt Nam như thế nào?  (02/09/2009)
Thế giới nghiên cứu về Việt Nam như thế nào?  (02/09/2009)
Hồ Chí Minh - Người khai sinh nước Việt Nam Dân chủ cộng hòa  (02/09/2009)
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Ba đột phá chiến lược trong mô hình tăng trưởng mới của Việt Nam
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trong tiến trình chuyển đổi năng lượng công bằng ở Việt Nam
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm