TCCSĐT - Mặc dù đã có những tiến bộ đáng kể trong ba thập kỷ qua kể từ khi ca AIDS đầu tiên được báo cáo, nhưng dịch HIV vẫn là một thảm họa chưa từng có của loài người, gây ra nỗi thống khổ to lớn cho các quốc gia, các cộng đồng và các gia đình trên toàn thế giới. Việt Nam đang tiến tới chấm dứt đại dịch này vào năm 2030.

Cam kết trên toàn thế giới đối với dịch HIV toàn cầu là chưa từng có tiền lệ, kể từ Tuyên bố Cam kết năm 2001 về phòng, chống HIV/AIDS và Tuyên bố Chính trị năm 2006 về phòng, chống HIV/AIDS, những cam kết này đã được thể hiện bằng việc gia tăng nguồn kinh phí gấp 4 lần từ 4 tỷ USD năm 2001 lên 16 tỷ USD năm 2010, con số tài chính lớn nhất dành cho cuộc chiến với một căn bệnh nguy hiểm nhất trong lịch sử. Ngày 14-7-2015, Liên Hợp quốc đưa ra mục tiêu đáp ứng điều trị cho 15 triệu người. Đây là kết quả sau nhiều thập kỷ đầu tư và nỗ lực toàn cầu để có được các loại thuốc kháng vi-rút cho những người cần như những người sống ở vùng cận Xa-ha-ra châu Phi. Theo Tiến sĩ Michel Sidibé, Giám đốc Điều hành của UNAIDS, nhờ nguồn lực tài chính được tăng cường nên việc áp dụng phương pháp điều trị ARV đã giúp làm giảm nguy cơ lây nhiễm vi-rút HIV và kéo dài tuổi thọ của người mắc HIV/AIDS là một bước tiến lớn rất quan trọng, hướng tới “loại trừ” đại dịch này đến năm 2030. Cũng tại thời điểm này, Liên hợp quốc khởi xướng các mục tiêu 90-90-90. Mục tiêu này hướng tới việc làm cho: 90% số người nhiễm HIV biết được tình trạng nhiễm HIV của mình; 90% số người đã chẩn đoán bị nhiễm HIV được điều trị ARV liên tục và 90% số người được điều trị ARV kiểm soát được tải lượng vi-rút ở mức thấp và ổn định hay còn gọi là tải lượng HIV dưới ngưỡng ức chế.

Theo đánh giá của Liên hợp quốc, nếu các quốc gia đạt được ba mục tiêu 90-90-90 thì có thể phát hiện được hầu hết những người nhiễm HIV trong cộng đồng; điều trị được hầu hết những người nhiễm HIV với kết quả điều trị tốt, giảm tối đa khả năng lây nhiễm HIV cho người khác. Như vậy, những người đã nhiễm HIV có cuộc sống khỏe mạnh, từ đó, có thể đạt được mục tiêu to lớn hơn là kết thúc đại dịch vào năm 2030.

Đương đầu với HIV/AIDS tại Việt Nam - Những thành quả đạt được

Tuy phải đối mặt với thực trạng trên nhưng sau hơn hai thập niên đương đầu với HIV/AIDS tại Việt Nam, chúng ta đã gặt hái được những thành công to lớn.

Thứ nhất, phải kể đến là chúng ta đã kiểm soát được tình hình dịch HIV, không để HIV phát triển thành đại dịch. Nhờ những biện pháp tổng hợp, chúng ta đã khống chế dịch không để cho tình hình dịch phát triển như các nhà dịch tễ học và Tổ chức Y tế thế giới dự báo vào năm 1993 là Việt Nam sẽ có 570.000 nhiễm HIV vào năm 1998. Sau hai năm nỗ lực đương đầu với HIV, năm 1995, bằng các phương pháp khoa học, các nhà dịch tễ học quốc tế đã đưa ra dự báo mới sẽ có 380.000 người nhiễm HIV ở Việt Nam vào năm 2000. Sau các dự báo này, Đảng và Nhà nước ta đã thực hiện đồng bộ các giải pháp mạnh mẽ về cam kết chính trị, về luật pháp, về đầu tư, về các biện pháp tuyên truyền giáo dục, về chuyên môn y tế, về huy động cộng đồng… nên chúng ta đã khống chế được sự lây lan HIV không theo như dự báo. Đến năm 2000, con số phát hiện nhiễm HIV trong toàn quốc là 23.348, thấp hơn dự báo năm 1993 trên 20 lần, và thấp hơn dự báo năm 1995 tới 16 lần. Với con số lũy tích phát hiện đến tháng 9-2015 là 227.154 thì từ năm 2001 đến nay, theo mô hình tính toán của các nhà dịch tễ học châu Á, với việc tiến hành các biện pháp can thiệp giảm tác hại, chăm sóc và điều trị ARV và các biện pháp tuyên truyền, giáo dục… chúng ta đã tránh nhiễm HIV cho hơn 400.000 người.

Thứ hai, công cuộc phòng chống AIDS tại Việt Nam đã thu hút sự tham gia của cả hệ thống chính trị, của toàn dân, của toàn xã hội. Có thế thấy rằng, ở Việt Nam hiếm có bệnh tật nào được sự quan tâm to lớn như phòng, chống HIV/AIDS. Để lãnh đạo công tác phòng, chống AIDS, Ban Bí thư Trung ương Đảng đã ban hành Chỉ thị số 52-1995/CTTW vào tháng 3-1995 về “Tăng cường lãnh đạo công tác phòng chống AIDS” và Chỉ thị số 54-2005/TTW về “Tăng cường lãnh đạo công tác phòng, chống AIDS trong tình hình mới”. Sau văn bản chỉ đạo của Đảng, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã thông qua Pháp lệnh phòng, chống HIV/AIDS vào tháng 5-1995 và Pháp lệnh này sau khi tổ chức thực hiện có hiệu quả trong 10 năm, để phù hợp với tình hình mới đã được nâng lên thành Luật phòng, chống HIV/AIDS vào năm 2006. Nhờ sự lãnh đạo trực tiếp và toàn diện của Trung ương Đảng, các ngành, các cấp, các tổ chức chính trị - xã hội… đã vào cuộc mạnh mẽ, tham gia vào các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS.

Thứ ba, ngay từ đầu vụ dịch trong những năm 90 của thế kỷ trước, chúng ta đã hết sức coi trọng công tác tuyên truyền giáo dục, đưa các kiến thức về HIV/AIDS và nhiệm vụ phòng, chống HIV/AIDS đến với mọi tầng lớp nhân dân. Theo từng chức năng và nhiệm vụ của các cơ quan truyền thông và của các tổ chức chính trị, xã hội, các phóng viên, biên tập viên báo đài và các cơ quan truyền thông đã được thường xuyên tập huấn, cập nhật tình hình dịch bệnh và các kỹ năng truyền thông phòng, chống HIV/AIDS. Hàng vạn bài báo, hàng nghìn phóng sự phát thanh và truyền hình đã được đăng tải hằng năm trên các phương tiện thông tin đại chúng. Nhờ sự phối hợp nhịp nhàng các hình thức truyền thông khác nhau, thông tin về HIV/AIDS và các vấn đề có liên quan trong phòng, chống AIDS đã góp phần làm cho sự chuyển đổi từ nhận thức đúng đến thực hành hành vi an toàn trong quan hệ tình dục, trong việc tiếp xúc với máu và dịch sinh học có nguy cơ lây nhiễm HIV, làm cho sự lan nhiễm HIV nhanh ra cộng đồng đã được ngăn chặn.

Thứ tư, ngay từ những năm cuối của thế kỷ trước, chúng ta đã coi trọng công tác chăm sóc và điều trị. Chăm sóc và điều trị còn được coi là dự phòng tích cực. Nhờ tiến hành công tác chăm sóc và điều trị, người nhiễm HIV đã ngày càng tự tin hơn vào xã hội, vì vậy đã lôi cuốn họ tham gia tích cực vào công tác chăm sóc và điều trị và các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS. Trong bối cảnh nước ta, việc tổ chức điều trị ARV cho hơn 100.000 bệnh nhân HIV/AIDS và điều trị thay thế cho gần 40.000 người bằng mê-tha-đôn là một nỗ lực và thành công đáng ghi nhận.

Thứ năm, chúng ta đã coi việc chống lại sự kỳ thị phân biệt đối xử liên quan đến HIV/AIDS là một công việc của cả hệ thống chính trị. Việc chống kỳ thị phân biệt đối xử liên quan đến HIV/AIDS được chú trọng ngay tại gia đình người nhiễm, đến họ hàng, làng xóm, khu dân cư đến cộng đồng. Các hoạt động chống kỳ thị phân biệt đối xử liên quan đến HIV/AIDS được tiến hành ngay trong các nhà trường, các cơ quan, đơn vị, nơi làm việc, tại bệnh viện, ngay cả trong nhà tù,… Tuy hiện nay tình trạng kỳ thị phân biệt đối xử vẫn còn tồn tại ở nhiều nơi, nhưng đã giảm rất nhiều về mức độ và tính chất. Chính nhờ vậy mà hàng vạn người nhiễm HIV đã tự bộc lộ mình, tham gia tích cực vào các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS và tham gia tích cực vào quá trình lao động sản xuất, làm ra nhiều của cải vật chất, nuôi sống bản thân và gia đình…

Thứ sáu, công tác phòng, chống HIV/AIDS ở Việt Nam đã thu hút sự hỗ trợ quốc tế to lớn. Là một quốc gia còn nghèo và đang phát triển, chúng ta đã mở rộng hợp tác quốc tế trong phòng, chống HIV/AIDS. Chúng ta đã hợp tác với tất cả các nước có tiềm lực như Mỹ, Anh, Đức, Nhật, Ô-xtrây-li-a, Ca-na-đa, cộng đồng châu Âu… Chúng ta đã nhận được sự hỗ trợ to lớn về kinh phí, về kinh nghiệm và về đào tạo nguồn nhân lực. Các biện pháp can thiệp giảm tác hại như chương trình trao đổi bơm kim tiêm sạch, chương trình bao cao su, chương trình điều trị thay thế nghiện các chất dạng thuốc phiện bằng mê-tha-đôn, điều trị ARV đã được sự hỗ trợ có hiệu quả của các chương trình Quỹ toàn cầu, chương trình cứu trợ khẩn cấp của Tổng thống Hoa kỳ (PEPFAR), của DFID (Bộ Phát triển quốc tế Vương quốc Anh), JICA (Cơ quan hợp tác quốc tế Nhật Bản),…

Những khó khăn và thách thức

HIV/AIDS hiện là vấn đề sức khỏe công cộng quan trọng. Hiện nay HIV/AIDS vẫn là nguyên nhân hàng đầu gây ra gánh nặng bệnh tật ở Việt Nam. Số lũy tích HIV dương tính tiếp tục tăng cao, 227.000 người nhiễm HIV cần được chăm sóc, điều trị thường xuyên, liên tục, suốt đời. Như trên đã nói, mỗi năm vẫn có 12.000 người bị phát hiện nhiễm HIV mới và có tới từ 2.000 đến 3.000 người tử vong do HIV/AIDS. Nhóm người có hành vi nguy cơ lây nhiễm HIV cao, như tiêm chích ma túy, sử dụng ma túy tổng hợp, mua bán dâm, quan hệ tình dục đồng giới vẫn ở mức cao… Tất cả những điều trên tiềm ẩn nguy cơ bùng phát dịch HIV/AIDS, nhất là ở vùng sâu, vùng xa.

Mức độ bao phủ của dịch vụ phòng, chống HIV/AIDS còn hạn chế do thiếu nguồn lực. Do thiếu nguồn lực, các chương trình can thiệp giảm tác hại như trao đổi bơm kim tiêm, chương trình bao cao su, chương trình điều trị thay thế các chất dạng thuốc phiện bằng mê-tha-đôn, chương trình điều trị ARV, đều chỉ đạt được xấp xỉ 50% các yêu cầu và chỉ tiêu đề ra.

Kinh phí cho công cuộc phòng, chống HIV/AIDS đang bị cắt giảm nghiêm trọng. Trong hơn 10 năm qua, 80% chi phí cho công tác phòng, chống AIDS ở Việt Nam dựa vào viện trợ quốc tế. Nguồn tài trợ này đang kết thúc dần và chỉ còn tồn tại cho đến năm 2017. Bên cạnh đó, ngân sách quốc gia dành cho công cuộc phòng, chống AIDS cũng bị giảm dần từ 245 tỷ đồng năm 2013 xuống còn 85 tỷ đồng 2014 và được nâng lên không nhiều (120 tỷ đồng) vào năm 2015. Trong khi đó, Chính phủ dự định trong tương lai chuyển chi trả cho điều trị từ bao cấp thông qua viện trợ quốc tế sang bảo hiểm y tế, thì cho đến nay, theo báo cáo của ngành y tế mới có khoảng 30% người nhiễm HIV có thẻ bảo hiểm y tế. Năm 2016, phòng, chống HIV/AIDS không còn được Chính phủ đưa vào là chương trình mục tiêu quốc gia nên không được ưu tiên đầu tư như những năm trước đây. Chính vì vậy, vấn đề nguồn đầu tư kinh phí đang trở thành vấn đề sống còn của công cuộc phòng, chống AIDS ở nước ta hiện nay.

Những thành công bước đầu về phòng, chống HIV/AIDS thời gian qua làm cho nhiều cấp ủy đảng và chính quyền có nhận thức là công tác phòng, chống HIV/AIDS không còn cấp bách, không còn là nhiệm vụ thường xuyên và lâu dài nên đã lơ là việc lãnh đạo và tổ chức thực hiện công tác phòng, chống HIV/AIDS, khoán trắng công tác phòng, chống HIV/AIDS cho ngành y tế, cho cơ quan thường trực phòng, chống AIDS. Đặc biệt trong thời gian hiện nay, khi mà Đại hội Đảng các cấp đang diễn ra, tiến tới Đại hội lần thứ XII của Đảng thì hàng loạt cán bộ từ Trung ương đến tận cơ sở đã thay đổi những người mới, những người tuy rất trẻ, rất hăng hái nhiệt tình nhưng hầu như kiến thức về HIV/AIDS và kiến thức lãnh đạo công tác phòng, chống AIDS chưa được trang bị, điều đó sẽ ảnh hưởng đến công tác phòng, chống AIDS.

Công tác truyền thông, giáo dục về HIV/AIDS chưa thường xuyên và chưa đủ sức tạo ra sự thay đổi hành vi. Mục tiêu của chiến lược quốc gia đến năm 2020 là làm cho 80% người dân từ 15 đến 49 tuổi có hiểu biết đầy đủ về HIV/AIDS để người dân biết được những nguy cơ lây nhiễm HIV và có thể tự ngăn ngừa lan nhiễm HIV. Mục tiêu này khó đạt được vì công tác truyền thông chưa đến được với đồng bào các dân tộc vùng sâu, vùng xa, vùng dân tộc thiểu số, chưa đến được với nhóm dân cư di cư biến động từ nông thôn ra thành thị, đến những vùng kinh tế mới, chưa đến với ngư dân đánh bắt xa bờ, đến với những người lái xe đường dài, người mua, bán dâm, những người quan hệ tình dục đồng giới…

Sự kỳ thị phân biệt đối xử liên quan đến HIV/AIDS vẫn là rào cản công cuộc phòng, chống AIDS ở nước ta. Mặc dù đã có những bước tiến bộ trong việc làm giảm sự kỳ thị phân biệt đối xử liên quan đến HIV/AIDS, nhưng cho đến nay người nhiễm và những người liên quan đến HIV/AIDS vẫn bị kỳ thị và phân biệt đối xử. Họ gặp nhiều khó khăn trong cuộc sống thường nhật, trong công ăn, việc làm, trong học hành. Việc thực thi quyền con người của họ bị hạn chế, vì vậy đã làm giảm lòng tự tin, tự giác và tự lập của họ trong nhiều hoạt động…

Vai trò của các tổ chức dựa vào cộng đồng trong phòng, chống HIV/AIDS tuy có bước tiến so với trước đây nhưng vẫn còn những vướng mắc cần được tháo gỡ. Vướng mắc lớn nhất là tuy đã hoạt động tích cực hàng chục năm qua cho công tác phòng, chống HIV/AIDS nhưng đến nay các tổ chức này vẫn chưa có tư cách pháp nhân để hoạt động. Họ thường hoạt động dựa trên sự bảo trợ của các tổ chức phi chính phủ (NGOs) nên rất bị động, thiếu tính ổn định. Hoạt động phòng, chống AIDS rất cần họ nhưng hằng năm khi lập kế hoạch hoạt động, họ không được kết cấu công việc và kinh phí đi kèm. Hoạt động 10 năm qua, họ chủ yếu dựa vào các dự án hỗ trợ quốc tế, hết dự án quốc tế, cũng hết hoạt động, các tổ chức này tự giải thể…

Chấm dứt đại dịch vào năm 2030

Liên hợp quốc quyết tâm kết thúc đại dịch HIV/AIDS vào năm 2030 với mục tiêu “Ba không”. Mục tiêu đó bao gồm: Không còn người nhiễm HIV mới; không còn người chết do AIDS; và không còn sự kỳ thị phân biệt đối xử liên quan đến HIV/AIDS. Hàng loạt biện pháp cụ thể được đặt ra cho công cuộc phòng, chống AIDS của loài người. Trong đó, sự cam kết chính trị của các chính phủ, những người đứng đầu các quốc gia, các nhà nước đóng vai trò quan trọng. Bên cạnh đó, các biện pháp về chăm sóc, điều trị được tăng cường, như việc điều trị sớm ngay từ khi phát hiện nhiễm HIV, làm giảm tải lượng vi-rút là biện pháp hữu hiệu ngăn ngừa sự lan truyền HIV. Đặc biệt, Liên hợp quốc phấn đấu đến năm 2025 có nguồn tài chính 25 tỷ USD chi cho công cuộc phòng, chống AIDS toàn cầu, trong đó một phần đáng kể dành hỗ trợ cho các nước nghèo ở châu Phi, dành cho việc phát triển vắc-xin và thuốc điều trị. Như vậy, ước tính để chấm dứt đại dịch, bình quân đầu người trên thế giới phải có được khoảng 4 USD/người/năm. Không có được nguồn kinh phí đó, chúng ta không thể kết thúc đại dịch vào năm 2030. Tuy nhiên, theo ước tính Việt Nam mới phát hiện được khoảng 56% số người mới nhiễm HIV nên còn khá xa để đạt được mục tiêu 90-90-90 của UNAIDS. Vì vậy, cần ưu tiên các giải pháp: giám sát chủ động các ca bệnh; mở rộng mạng lưới xét nghiệm, phân cấp đến y tế cơ sở để những người có nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS dễ tiếp cận các biện pháp phòng, chống HIV/AIDS; tăng cường truyền thông, hiểu biết, giảm kỳ thị phân biệt đối xử; mở rộng độ bao phủ dịch vụ điều trị, tăng nhanh số lượng bệnh nhân; chú trọng, theo dõi chặt chẽ chất lượng điều trị… đồng thời tiếp tục khống chế để dịch không tăng thông qua các biện pháp can thiệp giảm tác hại hiệu quả, tập trung vào các nhóm nguy cơ cao, địa bàn trọng điểm về HIV/AIDS.

Để đạt được mục tiêu 90-90-90, công tác phòng, chống HIV/AIDS phải được duy trì và tăng cường. Tiếp tục cam kết mạnh mẽ về chính trị, các nhà lãnh đạo các cấp phải nhập cuộc lãnh đạo công tác phòng, chống AIDS. Tăng cường công tác truyền thông thay đổi hành vi, làm cho hành vi luôn luôn an toàn trong tất cả các hoạt động của nhân dân liên quan đến lây truyền HIV/AIDS. Truyền thông phòng, chống AIDS cần hướng tới các nhóm đối tượng đích (đối tượng hành vi nguy cơ cao như tình dục không an toàn, tiêm chích ma túy), những người sử dụng ma túy, những người mua, bán dâm, những người có quan hệ tình dục đồng giới, những người dân di cư biến động, thanh thiếu niên, đặc biệt là thanh thiếu niên ở vùng sâu, vùng dân tộc ít người… Tiếp tục làm giảm thiểu sự kỳ thị phân biệt đối xử liên quan đến HIV/AIDS bằng cách tăng cường việc hoàn thiện hệ thống pháp luật phòng, chống AIDS, tuyên truyền rộng rãi và tổ chức việc thực hiện các quy định pháp luật liên quan đến HIV/AIDS. Các hoạt động can thiệp giảm tác hại, giáo dục đồng đẳng (là những người tự nguyện tập hợp thành một nhóm để thực hiện công tác tuyên truyền, vận động và giúp đỡ những người có cùng cảnh ngộ), tạo mọi điều kiện về tổ chức, về luật pháp, về kinh phí cho các tổ chức phòng, chống AIDS dựa vào cộng đồng của người nhiễm HIV/AIDS, của các tôn giáo, của người sử dụng ma túy, của phụ nữ bán dâm được tham gia vào các hoạt động phòng, chống HIV/AIDS. Về chăm sóc và điều trị, cần phấn đấu để tất cả người nhiễm HIV/AIDS được chăm sóc và điều trị bằng bảo hiểm y tế.

Nhằm chấm dứt đại dịch HIV/AIDS vào năm 2030, mặc dù nguồn viện trợ quốc tế bị cắt giảm hoàn toàn, Chính phủ cần huy động mọi nguồn lực để có được bình quân đầu người vào năm 2020 ít nhất đạt 2 USD/người/năm, nghĩa là tổng đầu tư mỗi năm cho công cuộc phòng, chống HIV/AIDS phải đạt được khoảng từ 180 đến 200 triệu USD. Bằng nhiều biện pháp tổng hợp, với những kinh nghiệm và thành công đã đạt được trong những năm qua, chúng ta sẽ chấm dứt đại dịch vào năm 2030./.