Những kinh nghiệm từ thực tiễn phát triển khu công nghiệp tỉnh Vĩnh Long
TCCS - Trong những năm qua, tỉnh Vĩnh Long đã tập trung thực hiện chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng đẩy mạnh công nghiệp hóa, trọng tâm là phát triển các khu công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn; khai thác tốt các lợi thế, phát triển ổn định và bền vững. Nhờ vậy, tốc độ tăng trưởng GDP bình quân của tỉnh trong giai đoạn 2001 - 2008 đạt 9,52%; trong đó khu vực I tăng 5,65%, khu vực II tăng 16,68% và khu vực III tăng 11,52% .
Thành tựu đạt được và những khó khăn, thách thức
Quán triệt và nhận thức được vai trò đột phá của chiến lược đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa phục vụ phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn; ngay từ Đại hội VII của Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long (nhiệm kỳ 2001 - 2005) xác định: “Từng bước hoàn thành việc xây dựng cơ bản các khu công nghiệp của tỉnh. Trước mắt tập trung hoàn thiện và đưa vào sử dụng khu công nghiệp Hòa Phú, xúc tiến nhanh các thủ tục hình thành các khu công nghiệp Bình Minh, tuyến công nghiệp Cổ Chiên...”. Đại hội VIII Đảng bộ tỉnh Vĩnh Long (nhiệm kỳ 2005 - 2010) một lần nữa khẳng định: “Tập trung xây dựng hoàn thiện kết cấu hạ tầng các khu công nghiệp... tạo bước đột phá quan trọng nhằm thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh”.
Đến nay, về cơ bản, Vĩnh Long đã hình thành một hệ thống các khu và cụm công nghiệp, gắn với phát triển các khu đô thị, trên cơ sở chiến lược quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội trong phạm vi cả tỉnh. Đến tháng 7-2009, tỉnh được Thủ tướng Chính phủ quyết định cho thành lập 2 khu công nghiệp tập trung bao gồm: Khu công nghiệp Hòa Phú (giai đoạn 1) với diện tích 137 ha, khu công nghiệp Bình Minh với diện tích 132 ha và 30 ha xây dựng khu nhà ở cho chuyên gia, công nhân và dịch vụ để phục vụ khu công nghiệp Bình Minh. Tỉnh đã có quyết định phê duyệt đề cương quy hoạch chi tiết tuyến công nghiệp Cổ Chiên với quy mô 120 ha (trong đó khu 4 và khu 5 tuyến công nghiệp Cổ Chiên thuộc huyện Long Hồ và huyện Mang Thít được phê duyệt quy hoạch chi tiết với diện tích 50 ha). Riêng dự án khu công nghiệp Hòa Phú (giai đoạn 2) đã được hoàn tất các thủ tục cần thiết để đề nghị Thủ tướng Chính phủ tiếp tục cho thành lập với diện tích 129,9 ha. Cùng với việc thành lập quy hoạch các khu và tuyến công nghiệp, các khu đô thị mới của tỉnh Vĩnh Long đã từng bước được hình thành và phát triển. Năm 2004, quy hoạch chung xây dựng đô thị Bình Minh đến năm 2020 đã được phê duyệt với tổng diện tích tự nhiên là 9.084 ha, trong đó diện tích đất xây dựng đô thị dự kiến trên 600 ha và quy hoạch khu đô thị Mỹ Thuận (thuộc thành phố Vĩnh Long) với tổng diện tích 450 ha.
Sau 7 năm quy hoạch, thành lập và tiến hành đầu tư xây dựng, đến nay Vĩnh Long đã hình thành 2 khu công nghiệp tập trung: Hòa Phú giai đoạn 1, Bình Minh và tuyến công nghiệp Cổ Chiên, đã đạt được những kết quả và thành tựu nhất định trên một số mặt:
Đối với khu công nghiệp Hòa Phú giai đoạn 1, tỉnh đã cơ bản xây dựng xong các hạng mục kết cấu hạ tầng, có 16 nhà đầu tư trong và nước ngoài lần lượt đầu tư vào khu công nghiệp, với tỷ lệ lấp đầy đạt 98,6%. Đến hết năm 2008, khu công nghiệp Hòa Phú giai đoạn 1 thu hút và cấp giấy chứng nhận đầu tư cho 16 dự án, trong đó có 4 dự án đầu tư nước ngoài, 12 dự án trong và ngoài tỉnh; với tổng vốn đầu tư đăng ký là 512,79 tỉ VND và 64,11 triệu USD. Trong 16 dự án đầu tư nói trên, có 12 dự án đầu tư đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh có hiệu quả, 4 dự án còn lại đang trong thời gian xây dựng và hoàn chỉnh các thủ tục để chuẩn bị đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Hiện nay tỉnh đang triển khai tiếp khu công nghiệp Hòa Phú giai đoạn 2 với diện tích quy hoạch được phê duyệt là 130 ha. Công tác chi trả tiền đền bù cho dân đến nay đạt gần 80% và đang hoàn tất các thủ tục trình Thủ tướng Chính phủ quyết định cho thành lập khu công nghiệp này.
Đối với khu công nghiệp Bình Minh, tỉnh cơ bản thực hiện xong công tác đền bù giải phóng, san lấp mặt bằng và đang tiến hành đầu tư xây dựng các hạng mục kết cấu hạ tầng khu công nghiệp (diện tích 132 ha). Đến cuối năm 2008, đền bù giải tỏa được 658 hộ/680 hộ, đạt 97%. Ban Quản lý các khu công nghiệp của tỉnh giao đất xây dựng kết cấu hạ tầng đạt 66,6%. Chủ đầu tư thực hiện san lấp được 69% diện tích, xây dựng kết cấu hạ tầng và đường giao thông đạt 42,22% khối lượng công việc. Có 29 nhà đầu tư đến tiếp xúc, tìm hiểu cơ hội để đầu tư vào khu công nghiệp Bình Minh; hiện nay có 3 nhà đầu tư đăng ký xin thuê đất với diện tích là 24,65 ha được cấp giấy chứng nhận đầu tư.
Khu 4, khu 5 tuyến công nghiệp Cổ Chiên cũng được quy hoạch với diện tích 249 ha: trong đó san lấp mặt bằng đạt trên 54%, giao đất cho các nhà đầu tư, các cơ sở sản xuất, kinh doanh đạt tỷ lệ 35%. Hiện nay, Ban Quản lý các khu công nghiệp tỉnh tiến hành giao đất cho 2 nhà đầu tư với diện tích 7,53 ha tại khu 4 và cho 29 cơ sở sản xuất kinh doanh với diện tích 9,51 ha tại khu 5 thuộc tuyến công nghiệp này.
Sau 7 năm hình thành và phát triển, đến nay Vĩnh Long đã có 19 dự án thuộc khu công nghiệp Hòa Phú giai đoạn 1 và tuyến công nghiệp Cổ Chiên được ủy ban nhân dân tỉnh cấp giấy chứng nhận đầu tư, với tổng số vốn đăng ký đạt 550,79 tỉ VND và 71,51 triệu USD, trong đó có 14 dự án đang hoạt động có hiệu quả.
Giá trị sản xuất thực hiện cả năm 2008 của các doanh nghiệp trong các khu, tuyến công nghiệp (theo giá cố định năm 1994) đạt 1.570,569 tỉ đồng, tăng 36,82% so với năm 2007 và chiếm 35,89% giá trị sản xuất toàn ngành công nghiệp năm 2008. Giá trị xuất khẩu đạt 79,13 triệu USD, tăng 33,16% so với năm 2007 và bằng 43,71% tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đã đạt được, vấn đề hình thành và phát triển khu công nghiệp, cụm, tuyến công nghiệp của tỉnh vẫn còn những mặt tồn tại, hạn chế và khó khăn, thách thức, đó là:
Thứ nhất, việc quy hoạch các khu công nghiệp tập trung và các tuyến, cụm công nghiệp chưa được gắn kết, đồng bộ với quy hoạch xây dựng, quy hoạch các khu đô thị mới và quy hoạch các vùng nông thôn trên phạm vi toàn tỉnh. Việc thiếu hoặc chưa tính đến các quy hoạch các khu nhà ở cho công nhân, nhà trẻ, nhà mẫu giáo, trạm y tế và các loại hình thương mại, dịch vụ phục vụ khác... đã ảnh hưởng không nhỏ đến đời sống vật chất, tinh thần của công nhân tại các khu và tuyến công nghiệp.
Phát triển các khu công nghiệp, cụm, tuyến công nghiệp chưa gắn kết với quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn. Nhiều khu công nghiệp, cụm, tuyến công nghiệp đã hoàn thành, nhưng chậm đưa vào khai thác, hoặc rất ít các sản phẩm và các hoạt động hỗ trợ trực tiếp cho phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Tình trạng nóng vội trong thu hút đầu tư dẫn đến chất lượng quy hoạch thấp, công tác đền bù, giải phóng mặt bằng còn chậm và bộc lộ nhiều yếu kém, bất cập, làm nảy sinh không ít những vấn đề xã hội bức xúc.
Thứ hai, năng lực cạnh tranh và tính chất liên kết, sự hỗ trợ tương tác giữa các khu công nghiệp, cụm, tuyến công nghiệp trong vùng nhằm phát huy những lợi thế để cùng phát triển còn bộc lộ nhiều yếu kém. Nhìn tổng thể, Vĩnh Long vẫn đang thiếu một tầm nhìn chiến lược trong quy hoạch phát triển, trong phối hợp tổ chức thực hiện, quản lý điều hành v.v.. Thực tế đó đã làm cho công tác quy hoạch chung về quy mô phát triển các khu công nghiệp, cụm, tuyến công nghiệp trong trạng thái phân tán, chia cắt, thiếu định vị các ngành chủ lực cho từng khu, dẫn đến phát triển dàn trải, thiếu đồng bộ và đang tiếp tục diễn ra tình trạng lãng phí, kém hiệu quả kéo dài trong đầu tư phát triển.
Thứ ba, công tác đền bù, giải phóng mặt bằng các khu và tuyến công nghiệp còn nhiều khó khăn, vướng mắc; mà chủ yếu trong khâu áp giá đền bù cho các hộ dân, do vậy tiến độ đền bù, giải phóng mặt bằng còn chậm và kéo dài nhiều năm, nhất là khu công nghiệp Bình Minh và tuyến công nghiệp Cổ Chiên.
Mặc dù công tác đào tạo, phát triển nguồn nhân lực của tỉnh thời gian qua từng bước được cải thiện, nâng cao, tuy nhiên, vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu lao động có tay nghề, nhất là lao động kỹ thuật cao cho các khu và tuyến công nghiệp.
Những kinh nghiệm bước đầu
Từ thực tiễn và kết quả đạt được trong lĩnh vực phát triển khu công nghiệp tập trung của tỉnh Vĩnh Long những năm qua, có thể rút ra một số kinh nghiệm sau đây:
Một là, dựa vào các định hướng phát triển cụ thể, đồng thời chọn đúng các ngành kinh tế chủ lực, các loại sản phẩm mà thị trường có nhu cầu, địa phương có lợi thế để phát triển. Kinh nghiệm 7 năm qua cho thấy, do nóng vội muốn lấp đầy nhanh chóng các khu công nghiệp và chạy theo thành tích, đã tiếp nhận đầu tư thiếu cân nhắc, tính toán. Hệ quả là việc tiếp nhận một số các dự án có thiết bị lạc hậu dẫn đến hiệu quả khai thác quỹ đất thấp, ô nhiễm môi trường cần phải xử lý, bỏ lỡ những cơ hội có nhiều ưu thế vì không còn địa điểm đón nhận những dự án mới.
Hai là, chú trọng đúng mức các hình thức mời gọi đầu tư. Đây là yếu tố quyết định cho phép trước hết lựa chọn được các nhà đầu tư có uy tín, các loại hình thiết bị hiện đại, các ngành, sản phẩm thế giới có nhu cầu và đặc biệt là phải phù hợp với đặc điểm, điều kiện và lợi thế của địa phương.
Ba là, khi xem xét quy hoạch, xây dựng và phát triển các khu, tuyến công nghiệp, ngoài việc xem xét các yếu tố, điều kiện thuận lợi về kết cấu hạ tầng như giao thông, còn phải tính đến các yếu tố liên quan đến sự phát triển bền vững của nông nghiệp, nông dân và nông thôn.
Bốn là, chỉ quy hoạch các khu, cụm công nghiệp trên những diện tích đất nông nghiệp trồng các loại cây cho năng suất thấp, không bảo đảm chủ động tưới tiêu, thường xuyên bị ngập lụt, khô hạn, sâu bệnh... nhằm bảo đảm an ninh lương thực và phát triển nông nghiệp một cách toàn diện, bền vững.
Năm là, khi quy hoạch các khu công nghiệp, phải tính đến quy hoạch các khu đô thị, khu dân cư tập trung gắn kết với việc đầu tư kết cấu hạ tầng đồng bộ, phát triển làng nghề truyền thống ở nông thôn để bảo đảm việc làm, đời sống, điều kiện sinh hoạt và đi lại của nông dân.
Sáu là, trong phát triển các khu công nghiệp tập trung, cần chú ý quan tâm phát triển các cụm công nghiệp, điểm công nghiệp nông thôn, mô hình các ngành nghề ở nông thôn... làm vệ tinh gia công sản phẩm, cung cấp, trao đổi nguyên liệu, vật tư và mua bán hàng hóa đối với các khu công nghiệp tập trung. Trong quy hoạch, xây dựng các khu công nghiệp cần có quan điểm và xác định cụ thể, hợp lý các lĩnh vực, ngành nghề sản xuất, kinh doanh của từng khu công nghiệp, theo phương châm tạo điều kiện khai thác, tiêu thụ tối đa các loại nông sản phẩm, sản phẩm phụ từ các ngành nông nghiệp, thủy sản ở vùng nông thôn do nông dân sản xuất ra.
Trong thời gian qua, tiến độ xây dựng, phát triển một số khu, tuyến công nghiệp còn rất chậm, mà nguyên nhân lớn và khó khăn nhất là công tác đền bù, giải phóng mặt bằng; trong đó có khâu giá cả đền bù chưa được sự đồng thuận của người dân, nhất là người dân ở các vùng nông thôn. Vì vậy, Nhà nước cần có cơ chế, chính sách đền bù hợp lý, thỏa đáng và bảo đảm được quyền lợi, ổn định cuộc sống của người dân khi bị mất đất. Có như vậy, công tác đền bù giải phóng mặt bằng sẽ không bị ách tắc.
Trên cơ sở quy hoạch về chiến lược phát triển, nên lựa chọn địa điểm, quy mô xây dựng và thời gian khởi công thích hợp. Làm tốt điều này có thể cho phép đạt được hiệu quả cao nhất trong đầu tư, vận hành, khai thác sử dụng, tránh lãng phí, tạo tâm lý tốt cho các nhà đầu tư, tăng sức hấp dẫn để tiếp tục thu hút vốn.
Một số nhiệm vụ cần tập trung thực hiện trong thời gian tới
Để vượt qua những khó khăn, bất cập trên, thời gian tới, Đảng bộ Vĩnh Long xác định sẽ tập trung vào một số nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu sau.
1 - Phấn đấu hoàn chỉnh quy hoạch hệ thống các khu công nghiệp; quy hoạch phát triển cụm, tuyến công nghiệp và quy hoạch phát triển ngành nghề nông thôn theo quyết định số 1175/QĐ-UBND ngày 28-5-2009 của ủy ban nhân dân tỉnh về việc: “Phê duyệt danh mục ngành, lĩnh vực, sản phẩm chủ yếu cần lập quy hoạch phát triển đến năm 2020 trên địa bàn tỉnh Vĩnh Long”.
Tập trung thực hiện có hiệu quả chiến lược phát triển kinh tế của Đảng về vị trí, vai trò của khu công nghiệp tập trung trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa phục vụ phát triển nông nghiệp, nông dân và nông thôn của tỉnh.
2 - Rà soát, điều chỉnh và lập mới quy hoạch sử dụng đất để phát triển ngành công nghiệp nói chung, các khu công nghiệp, tuyến, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh nói riêng, đặc biệt là các khu đất sản xuất nông nghiệp kém hiệu quả, quỹ đất công do Nhà nước giao cho các ngành, các doanh nghiệp quản lý song sử dụng không có hiệu quả thì kiên quyết thu hồi, tạo mặt bằng sạch, thực hiện giao đất có thu tiền hoặc cho thuê đối với các nhà đầu tư.
3 - Tăng cường và nâng cao chất lượng công tác quảng bá, xúc tiến thương mại và đầu tư cả chiều rộng lẫn bề sâu để các nhà đầu tư ngoài tỉnh, ngoài nước hiểu được tiềm năng, thế mạnh của Vĩnh Long, tìm đến đầu tư trên địa bàn tỉnh.
Tiến hành rà soát, điều chỉnh, bổ sung những chính sách khuyến khích, ưu đãi đầu tư để tạo môi trường thông thoáng, hấp dẫn cho các nhà đầu tư theo hướng vừa phù hợp với các quy định của Trung ương, vừa phù hợp với điều kiện cụ thể của tỉnh. Đầu tư phát triển đồng bộ các dịch vụ trong và ngoài các khu công nghiệp, như nhà ở cho công nhân, chuyên gia theo các hình thức thuê hoặc bán trả góp; dịch vụ mua bán hàng tiêu dùng, ăn uống, dịch vụ y tế, đào tạo lao động và các dịch vụ khác như tài chính, tín dụng, thông tin liên lạc, văn phòng, kho bãi...
4 - Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực theo hướng Nhà nước thực hiện chính sách hỗ trợ cho các cơ sở đào tạo và hỗ trợ cho người học nghề. Đặc biệt ưu tiên các đối tượng là nông dân ở nông thôn bị mất đất nông nghiệp do xây dựng các khu, cụm, tuyến công nghiệp. Từng bước xã hội hóa công tác hướng nghiệp và đào tạo nghề nhằm cung cấp lao động có trình độ kỹ thuật, chuyên môn cao cho các khu, tuyến, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh.
5 - Tập trung thực hiện và giải quyết dứt điểm công tác đền bù giải phóng mặt bằng khu công nghiệp Bình Minh, tuyến công nghiệp Cổ Chiên và khu công nghiệp Hòa Phú giai đoạn 2. Đẩy nhanh tiến độ và hoàn chỉnh xây dựng kết cấu hạ tầng kỹ thuật ngoài và trong hàng rào khu công nghiệp Bình Minh và hoàn chỉnh kết cấu hạ tầng tuyến công nghiệp Cổ Chiên.
6 - Tiếp tục cải tiến thủ tục hành chính, đổi mới, hoàn thiện cơ chế quản lý khu công nghiệp theo hướng quản lý “một cửa, tại chỗ”, Ban Quản lý các khu công nghiệp đồng hành cùng các doanh nghiệp, thường xuyên tiếp xúc nhà đầu tư, xử lý kịp thời các khó khăn, vướng mắc nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các hoạt động của các doanh nghiệp trong các khu, tuyến, cụm công nghiệp. Thực hiện nghiêm túc cơ chế, chính sách của Đảng và Nhà nước về phát triển khu công nghiệp tập trung, bảo đảm kết hợp tốt và hài hòa lợi ích của Nhà nước, chủ đầu tư, của địa phương và của người lao động, người dân liên quan đến quá trình phát triển khu công nghiệp. Tạo môi trường đầu tư thật sự cởi mở, thông thoáng, tin cậy và hiệu quả. Cuối cùng là các điều kiện trên phải được đặt trong môi trường chính trị - xã hội ổn định./.
Dự thảo thỏa thuận Hội nghị Copenhagen bị phản đối  (14/12/2009)
Làng nghề và bảo vệ môi trường làng nghề theo hướng phát triển bền vững  (14/12/2009)
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Bảo đảm quyền trẻ em trong mô hình chính quyền địa phương 2 cấp: Thuận lợi, thách thức và giải pháp
- Kinh nghiệm thực hiện mô hình “bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, tổ dân phố” ở Trung Quốc - Vận dụng cho thực tiễn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
- Phát triển văn hóa gắn với phát triển kinh tế và phát triển xã hội: Quá trình tất yếu, hướng đích của hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm