TCCSĐT - Ngày 13-11-2014, các đại biểu Quốc hội làm việc tại tổ, thảo luận về các dự án: Luật dân sự (sửa đổi) Luật Thú y, Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo.

Sửa đổi Luật dân sự để bảo đảm tốt hơn quyền con người

Dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) có tổng số 710 điều, được bố cục thành 6 phần, 29 chương. So với Bộ luật dân sự năm 2005, dự thảo Bộ luật lần này giữ nguyên 265 điều, sửa đổi 298 điều, bổ sung 174 điều, bãi bỏ 147 điều.

Qua thảo luận, nhiều ý kiến tán thành với sự cần thiết phải sửa đổi cơ bản, toàn diện Bộ luật dân sự; dự án Bộ luật dân sự (sửa đổi) đã được chuẩn bị công phu trên cơ sở tổng kết thực tiễn thi hành Bộ luật dân sự hiện hành.

Một số ý kiến đại biểu nhấn mạnh việc sửa đổi, bổ sung Bộ luật dân sự không chỉ nhằm giải quyết những vấn đề vướng mắc, tồn tại, đáp ứng được các yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội mà điều quan trọng hơn là phải phản ánh, bảo vệ và phát huy được giá trị văn hóa, truyền thống tốt đẹp của dân tộc, xây dựng Bộ luật dân sự trở thành luật chung của hệ thống pháp luật liên quan đến các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại, góp phần bảo đảm tính ổn định, bền vững của các quan hệ xã hội trên cơ sở kế thừa, phát triển pháp luật dân sự Việt Nam.

Bộ luật dân sự là một bộ luật có vai trò đặc biệt quan trọng đối với đời sống người dân nên một số ý kiến đề nghị Cơ quan soạn thảo rà soát kỹ các quy định để bảo đảm phù hợp với Cương lĩnh và Chiến lược phát triển kinh tế -xã hội, phù hợp với Hiến pháp và các điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; sự tương thích giữa các quy định trong Bộ luật với đặc điểm về văn hóa, địa lý, phong tục, tập quán ở nước ta; dự báo khả năng phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

Qua thảo luận, nhiều ý kiến đại biểu đề nghị vấn đề hình thức sở hữu cần được làm rõ hơn trong dự thảo Bộ luật. Các đại biểu Trần Xuân Hùng (Hà Nam), Phùng Quốc Hiển (Yên Bái) và một số ý kiến cho rằng để cụ thể hóa và để bảo đảm sự thống nhất với nội dung, tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về sở hữu toàn dân thì Bộ luật dân sự cần quy định ba hình thức sở hữu, bao gồm sở hữu toàn dân, sở hữu riêng và sở hữu chung.

Các đại biểu phân tích việc phân loại này bảo đảm tính thống nhất với nội dung, tinh thần của Hiến pháp năm 2013 về sở hữu trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, phù hợp với nguyên tắc xác định hình thức sở hữu. Theo đó, khi xác định hình thức sở hữu thì cần phải căn cứ vào sự khác biệt trong cách thức thực hiện các quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt của chủ sở hữu đối với tài sản chứ không phải căn cứ vào yếu tố ai là chủ thể cụ thể của quyền sở hữu như quy định hiện hành.

Theo quy định của Hiến pháp năm 2013 thì Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý các tài sản thuộc sở hữu toàn dân, do đó, có thể xác định Nhà nước chính là chủ thể có quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt các tài sản này. Vì vậy, trên cơ sở sở hữu toàn dân, Bộ luật dân sự cần ghi nhận cụ thể vai trò của Nhà nước trong việc chiếm hữu, sử dụng và định đoạt tài sản công.

Tuy nhiên, đại biểu Trần Đinh Nhã (Thừa Thiên - Huế) có quan điểm khác cho rằng, Bộ luật dân sự chỉ nên quy định hai hình thức sở hữu trong giao lưu dân sự là sở hữu riêng và sở hữu chung. Theo đại biểu, sở hữu toàn dân cũng là một hình thức của sở hữu chung và việc quy định hai hình thức trong dự thảo Luật sẽ dễ dàng hơn trong xử lý về pháp lý.

Thảo luận về các loại pháp nhân, dự thảo Bộ luật quy định hai loại pháp nhân cơ bản là pháp nhân thương mại là pháp nhân hoạt động vì mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận; pháp nhân phi thương mại là pháp nhân hoạt động không vì mục tiêu chính là tìm kiếm lợi nhuận và không phân chia lợi nhuận cho các thành viên.

Qua thảo luận, nhiều ý kiến tán thành với việc sửa đổi các quy định về phân loại pháp nhân, bởi vì việc phân loại pháp nhân theo hình thức liệt kê các chủ thể như Bộ luật dân sự hiện hành vừa không bảo đảm tính khái quát, vừa khó bảo đảm sự ổn định.

Nhiều ý kiến cũng tán thành với đề xuất của Chính phủ về việc lấy ý kiến nhân dân đối với Bộ luật này. Theo đó, sau khi Quốc hội cho ý kiến về dự án Bộ luật dân sự (sửa đổi) tại kỳ họp thứ tám, Quốc hội giao Chính phủ tổ chức lấy ý kiến nhân dân về dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi) trong khoảng thời gian từ tháng 01-2015 đến tháng 3-2015.

Trên cơ sở kết quả tổng hợp ý kiến nhân dân, ý kiến của các vị đại biểu Quốc hội, Chính phủ chỉ đạo Cơ quan chủ trì soạn thảo dự án phối hợp với các cơ quan của Quốc hội và các cơ quan, tổ chức liên quan tiếp thu, chỉnh lý hoàn thiện dự thảo Bộ luật, báo cáo Ủy ban Thường vụ Quốc hội và trình Quốc hội tại kỳ họp thứ chín.

Tại phiên thảo luận, các ý kiến thảo luận tập trung vào các nội dung phạm vi điều chỉnh và bố cục dự thảo Bộ luật dân sự (sửa đổi); những nguyên tắc cơ bản của pháp luật dân sự; về tôn trọng, bảo vệ quyền dân sự;...

Tăng cường công tác thú y, phòng, chống dịch bệnh

Thảo luận về dự án Luật Thú y, đa số đại biểu nhất trí về sự cần thiết ban hành Luật như Tờ trình của Chính phủ, đồng thời nhấn mạnh việc ban hành Luật còn thể hiện rõ quan điểm đổi mới của Đảng, Nhà nước ta trong công tác thú y nhằm phát triển nhanh ngành chăn nuôi theo phương thức công nghiệp, bán công nghiệp, an toàn dịch bệnh, phù hợp với lợi thế từng vùng; tăng cường công tác thú y, phòng, chống dịch bệnh; phát triển mạnh nuôi trồng thủy sản đa dạng, theo quy hoạch, phát huy lợi thế của từng vùng gắn với thị trường; xây dựng hệ thống thú y thủy sản…; góp phần bảo đảm an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường, phát triển bền vững kinh tế - xã hội.

Về hệ thống cơ quan chuyên ngành về thú y, đại biểu Hoàng Thị Tố Nga (Nam Định) nêu ý kiến: Hệ thống này chỉ nên từ trung ương đến cấp huyện. Đại biểu phân tích: Pháp lệnh Thú y năm 2004 đã quy định hệ thống cơ quan chuyên ngành thú y từ trung ương đến cấp huyện. Quy định về nhân viên thú y cấp xã được thực hiện theo Nghị định 92. Theo đó, mỗi xã có một thú y trưởng nằm trong ban nông nghiệp xã. Dưới hệ thống mỗi xã, thôn bản có một thú y viên. Thực tế, theo phản ánh của nhiều địa phương, nhân viên thú y cấp xã đã được giao thêm một số nhiệm vụ kiêm nhiệm khác để tăng thêm thu nhập. Vì thế, đến thời hạn tiêm phòng thú y và phòng, chống dịch bệnh, công việc của các nhân viên này rất nhiều và hệ thống điều hành chuyên môn rất khó.

Dự án Luật Thú y quy định “Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào điều kiện phát triển chăn nuôi tại địa phương, bố trí nhân viên thú y ở xã, phường, thị trấn. Chính phủ quy định cụ thể về tổ chức hệ thống cơ quan chuyên ngành thú y và chế độ chính sách cho nhân viên thú y cấp xã” là chưa rõ ràng, bởi nếu để Chính phủ quy định về hệ thống cơ quan chuyên ngành này sẽ rất dễ dẫn đến việc thêm biên chế thú y cấp xã. Bên cạnh đó, Chiến lược chăn nuôi từ nay đến năm 2020 hướng đến việc phát triển mô hình trang trại nhằm xã hội hóa công tác thú y. Nếu điều này được thực hiện, người chủ trang trại phải tự lo phòng tránh dịch bệnh chứ không thể trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước, vì vậy không nhất thiết phải có thêm biên chế thú y cấp xã.

Băn khoăn về tính khả thi của dự án Luật, đại biểu Nguyễn Mạnh Tiến (Tây Ninh) nêu rõ: hiện nay, tình hình dịch bệnh rất phức tạp, lây truyền nhanh và rộng. Bệnh dịch lây truyền ở nhiều vùng, “dẹp được chỗ này thì phát sinh chỗ khác”, nhất là ở khu vực vùng giáp biên. Bên cạnh việc ban hành Luật, cần tiếp tục củng cố hệ thống tổ chức, biện pháp kiểm soát, phòng tránh, mới giúp Luật mang tính khả thi và đi vào cuộc sống.

Quy định vùng biển ven bờ cần thống nhất với quy định pháp luật liên quan

Cho ý kiến về Dự án Luật Tài nguyên, môi trường biển và hải đảo, nhiều đại biểu nhất trí cho rằng việc ban hành Luật nhằm khắc phục một số chồng chéo trong các văn bản về khai thác, sử dụng tài nguyên; nâng cao hiệu quả công tác quản lý tổng hợp tài nguyên môi trường biển và hải đảo; góp phần hoàn thiện cơ sở pháp lý quan trọng thực hiện chủ quyền, quyền chủ quyền, quyền tài phán quốc gia trên biển.

Tán thành với việc ban hành Luật, tuy nhiên đại biểu Hoàng Thị Tố Nga (Nam Định) cho rằng còn có một số nội dung trong dự án Luật chưa được làm rõ, một số khái niệm còn khó hiểu.

Quan tâm đến quy định phạm vi vùng bờ, hành lang bảo vệ bờ biển, đại biểu Vũ Xuân Trường (Nam Định) đề nghị Ban soạn thảo cần nghiên cứu, cân nhắc thêm việc tổ chức thực hiện quản lý tổng hợp tài nguyên, môi trường vùng bờ để phù hợp với quy định của pháp luật về biên giới quốc gia và các văn bản pháp luật liên quan.

Đại biểu Vũ Xuân Trường nêu quan điểm: Quy định “Vùng biển ven bờ là vùng biển có chiều rộng 6 hải lý tính từ đường mực nước triều kiệt trung bình nhiều năm ra phía biển” có nội hàm là giới hạn tương tự như vùng nội thủy mà Luật Biển đã xác định. Vì vậy, đại biểu đề nghị nên sửa nội dung “vùng biển có chiều rộng 6 hải lý tính từ đường mực nước triều kiệt trung bình nhiều năm ra phía biển” thành “vùng nội thủy” để phù hợp với Luật Biển và các luật khác có liên quan.

Đại biểu lý giải: Vùng bảo vệ bờ biển là vùng tiếp giáp giữa thềm lục địa biển bao gồm vùng biển ven bờ và vùng đất ven biển, được xác định có chiều rộng từ đường mực nước triều kiệt trung bình nhiều năm (bờ biển) ra phía biển 6 hải lý (khoảng 10 km), cách xác định này phù hợp với cách xác định vùng nội thủy trong Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982) là: Vùng nội thủy là toàn bộ vùng nước tiếp giáp với bờ biển và nằm phía trong đường cơ sở dùng để tính chiều rộng của lãnh hải. Bên cạnh đó, theo quy định: “Chiều rộng hành lang bảo vệ bờ biển được tính từ đường mực nước triều cao trung bình trong nhiều năm về phía đất liền theo quy định của Chính phủ”, như vậy hành lang bảo vệ bờ biển có khác với vùng biển ven bờ hay không, điều này không được giải thích trong dự án luật. Do vậy, nên hợp nhất hai quy định này làm một để dễ hiểu hơn. Theo đó, Chính phủ quy định giới hạn chung, sau đó từng tỉnh thiết lập phạm vi và phương thức quản lý trên cơ sở đặc thù địa lý của từng tỉnh./.