Định hướng giảm nghèo đến năm 2020
TCCS - Những năm đầu của thập niên này, Liên hợp quốc đưa ra 8 mục tiêu thiên niên kỷ (MDGs), trong đó mục tiêu số 1 là xóa bỏ tình trạng nghèo đói cùng cực và giảm một nửa số người nghèo trên toàn thế giới vào năm 2015. Để thực hiện các mục tiêu đó, 79 quốc gia và vùng lãnh thổ đã triển khai xây dựng và thực hiện chiến lược toàn diện về tăng trưởng và giảm nghèo. Điều này cũng thể hiện cam kết chính trị mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế về việc xóa bỏ nghèo đói trên phạm vi toàn cầu và ở từng quốc gia. Việt Nam cũng là một trong số các quốc gia nêu trên.
1. Bối cảnh giảm nghèo ở nước ta sau năm 2010
Nghèo đói không chỉ là vấn đề xã hội mà còn là vấn đề kinh tế, chính trị của nhiều quốc gia trên thế giới. Chính vì vậy, từ những năm 70 thế kỷ XX, Hàn Quốc đã thực hiện “Chương trình đổi mới nông thôn” hướng vào giúp đỡ phát triển kinh tế - xã hội ở vùng nông thôn nghèo và giúp đỡ người nghèo đa dạng hóa về sinh kế và thu nhập. Sau 30 năm, Hàn Quốc đã hoàn thành các mục tiêu của “Chương trình đổi mới nông thôn” và cơ bản giải quyết xong vấn đề nghèo, đói. Trung Quốc - một quốc gia đông dân nhất thế giới ở cạnh nước ta, cũng đã triển khai chương trình giải quyết “Vấn đề no và ấm” cho người nghèo ở khu vực nông thôn từ năm 1975, đến năm 2000 Trung Quốc cơ bản giải quyết xong “Vấn đề no và ấm” cho người dân và chuyển sang chiến lược giảm nghèo và phát triển.
Ở nước ta, từ năm 1993 đã triển khai nhiều hoạt động trợ giúp người nghèo, mở đầu cho công cuộc chống nghèo đói quy mô lớn trên toàn quốc. Đặc biệt là từ năm 2008, Thủ tướng Chính phủ đã phê duyệt Chương trình Mục tiêu quốc gia về giảm nghèo. Đến nay, Chương trình này đã trải qua 3 giai đoạn và cơ bản nước ta cũng đã giải quyết vấn đề đói của người dân và hiện nay đang tập trung vào mục tiêu giảm nghèo bền vững.
Sau 17 năm thực hiện công cuộc giảm nghèo và sau gần 10 năm thực hiện chiến lược toàn diện về tăng trưởng và giảm nghèo, nước ta đã đạt được những thành tựu quan trọng về giảm nghèo, đó là cơ bản giải quyết song tình trạng nghèo cùng cực và tỷ lệ nghèo từ 58% (năm 1993) giảm xuống còn khoảng gần 10% (năm 2010). Kết cấu hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống dân sinh ở các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn và các huyện nghèo đã có sự đổi thay và khởi sắc. Thu nhập, đời sống của đại đa số người dân đã được nâng cao và cải thiện, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số, phụ nữ và trẻ em. Tỷ lệ người dân được tiếp cận với nước sạch và được sử dụng điện phục vụ sản xuất và đời sống đều tăng gấp đôi. Thu nhập bình quân đầu người đã vượt qua mốc của một nước nghèo (1.000USD) và trở thành nước có thu nhập trung bình. Thành tựu về giảm nghèo của nước ta được cộng đồng quốc tế ghi nhận là một điểm sáng và cũng là thành tựu nổi bật trong công cuộc đổi mới tính từ năm 1986 tới nay.
Tuy nhiên, công cuộc giảm nghèo ở nước ta cũng gặp nhiều khó khăn và thách thức: tỷ lệ hộ nghèo còn cao - khoảng 16 - 18%, nếu áp dụng chuẩn nghèo mới cho giai đoạn 2011 - 2015 (chuẩn mới là 500 nghìn đồng/tháng cho khu vực thành thị và 400 nghìn đồng/tháng cho khu vực nông thôn). Thành tựu giảm nghèo chưa vững chắc, có một tỷ lệ khá lớn hộ đã thoát nghèo song thu nhập, mức sống nằm sát ngay trên chuẩn nghèo, chỉ cần những biến động nhỏ về suy thoái kinh tế, thiên tai lũ lụt hoặc gia đình có người bệnh tật, ốm đau là có thể rớt xuống dưới chuẩn nghèo. Trong số hộ nghèo hiện có thì đa phần tập trung ở khu vực nông thôn (trên 90%) và lại rơi vào vùng kinh tế - xã hội chậm phát triển nhất là ở các huyện nghèo và các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn. Tỷ lệ người nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số trong tổng số người nghèo có xu hướng tăng từ 21% (năm 1993) lên 29% (năm 1998) và 37% (năm 2006), xu hướng này còn tiếp tục tăng trong giai đoạn 2011 - 2015 và ước tính có chạm mốc 50% vào năm 2015. Một bộ phận hộ nghèo mới cũng đã xuất hiện ở nhóm di cư tự do vào các đô thị và những người nông dân thuộc diện thu hồi đất sản xuất nông nghiệp để phát triển các khu công nghiệp và các khu đô thị mới do không tìm kiếm được việc làm có thu nhập ổn định. Mặt khác, biến đổi khí hậu dẫn đến thiên tai bão lũ, hạn hán, nước biển dâng và sa mạc hóa đồng ruộng ở một số khu vực, dẫn đến mất mùa và mất diện tích đất sản xuất, diện tích nước để sản xuất nông nghiệp cũng là những nguy cơ đe dọa thành quả giảm nghèo trên 10 năm qua ở nước ta. Bên cạnh đó, tình hình chỉ số giá tiêu dùng (CPI) trong nước trong những năm gần đây luôn ở mức cao kết hợp với việc phục hồi suy thoái kinh tế chậm của nhiều nước trên thế giới cũng ảnh hưởng lớn đến tăng trưởng kinh tế và giảm nghèo ở nước ta.
2. Định hướng giảm nghèo đến năm 2020
Công cuộc giảm nghèo đến năm 2020 cần hướng tới mục tiêu tổng quát là: Thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vì người nghèo, tăng cường và nâng cao chất lượng cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện chất lượng cuộc sống ở các huyện nghèo, xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn. Tạo cơ hội để người nghèo, hộ nghèo ổn định và đa dạng hóa việc làm, tăng thu nhập, đẩy nhanh tiến độ giảm nghèo và duy trì thành quả của công cuộc giảm nghèo, hạn chế tái nghèo; giảm thiểu tình trạng gia tăng bất bình đẳng về thu nhập và mức sống giữa nông thôn và thành thị, các nhóm dân cư; tăng cường khả năng tiếp cận pháp lý cho người nghèo; bảo vệ phụ nữ và trẻ em nghèo.
Trên cơ sở đó, mục tiêu cụ thể là:
+ Giảm ba phần tư số hộ nghèo so với đầu kỳ kế hoạch, bình quân mỗi năm giảm khoảng 10% (riêng các huyện nghèo, xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn giảm từ 12 - 13%); giảm tỷ lệ hộ nghèo của cả nước xuống còn 4% (theo chuẩn nghèo 2011).
+ Tạo việc làm ổn định và đa dạng hoạt động thu nhập cho lao động nghèo; tăng thu nhập bình quân đầu người của các hộ nghèo lên 3,5 lần và thu nhập bình quân đầu người của các huyện nghèo nhất tăng ít nhất 3 lần so với năm 2010.
+ Bảo đảm các điều kiện thiết yếu về nhà ở, nước sinh hoạt, tiếp cận các dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe, giáo dục, dạy nghề, đời sống văn hóa, tinh thần, tiếp cận dịch vụ trợ giúp pháp lý miễn phí cho các hộ nghèo, đặc biệt hộ nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số ở các huyện nghèo, xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn.
+ Cơ sở hạ tầng thiết yếu phục vụ sản xuất và dân sinh ở các huyện nghèo, xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn đạt chuẩn theo tiêu chí nông thôn mới.
Để thực hiện hiệu quả mục tiêu đó, tiếp tục thực hiện tốt các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm sau:
Thứ nhất, tiếp tục thực hiện các cơ chế, chính sách hỗ trợ trực tiếp đối với hộ nghèo, người nghèo và huyện nghèo, xã, thôn bản đặc biệt khó khăn. Rà soát, đánh giá lại toàn bộ các cơ chế, chính sách hiện có đối với người nghèo, hộ nghèo, huyện nghèo, xã, thôn bản đặc biệt khó khăn. Xác định những cơ chế, chính sách sẽ kết thúc vào cuối năm 2010, sửa đổi, bổ sung cơ chế, chính sách cho phù hợp với tình hình mới và đặc thù các vùng, miền. Khắc phục hiệu quả tình trạng chồng chéo các chính sách: chính sách tín dụng cho người nghèo; hỗ trợ dạy nghề miễn phí cho người nghèo gắn với việc làm; cung cấp dịch vụ khuyến nông - lâm - ngư miễn phí cho người nghèo làm nông nghiệp; hỗ trợ về giáo dục - đào tạo; hỗ trợ về y tế; chính sách hỗ trợ về nhà ở, nước sinh hoạt; hỗ trợ người nghèo tiếp cận các dịch vụ trợ giúp pháp lý và hỗ trợ người nghèo hưởng thụ văn hóa, thông tin.
Thứ hai, tiếp tục các chính sách đặc thù cho địa bàn khó khăn nhất, bao gồm: Tiếp tục thực hiện Chương trình hỗ trợ giảm nghèo nhanh và bền vững đối với 62 huyện nghèo theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP, ngày 27-12-2008, của Chính phủ; rà soát, bổ sung thêm một số huyện có tỷ lệ nghèo cao để được hưởng cơ chế, chính sách theo Nghị quyết số 30a/2008/NQ-CP nhưng mức hỗ trợ từ ngân sách trung ương thấp hơn; khuyến khích các địa phương khác huy động nguồn lực trên địa bàn để vận dụng chính sách này hỗ trợ các huyện, xã, thôn bản nghèo nhất của địa phương vươn lên giảm nghèo nhanh và bền vững.
Thứ ba, thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội đối với các huyện nghèo, các xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn (ngoài các huyện nghèo nhất) thuộc vùng miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, vùng bãi ngang ven biển, hải đảo, vùng có đông đồng bào dân tộc sinh sống trên cơ sở các chính sách thuộc Chương trình 135 giai đoạn II.
Thứ tư, tiếp tục thực hiện chính sách hỗ trợ hộ nghèo về đất ở, đất sản xuất theo Quyết định số 134/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ nhưng có sửa đổi, bổ sung cho phù hợp với giai đoạn mới. Xây dựng và thực hiện một Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo thống nhất, toàn diện, thể hiện quyết tâm của cả nước giành ưu tiên giảm nghèo đối với những vùng khó khăn nhất (miền núi phía Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ, vùng bãi ngang ven biển, hải đảo, vùng có đông đồng bào dân tộc sinh sống) nhằm đẩy tốc độ giảm nghèo ở các địa bàn này nhanh hơn các vùng khác, giảm dần khoảng cách chênh lệch về mức sống giữa các vùng miền.
Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững giai đoạn 2011 - 2015 cần hướng vào các hoạt động:
- Hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng (được thực hiện trên địa bàn các huyện nghèo, xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn);
- Hỗ trợ sản xuất, tăng thu nhập cho người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số (được thực hiện trên địa bàn các huyện nghèo, xã, thôn, bản đặc biệt khó khăn);
- Nâng cao năng lực giảm nghèo và truyền thông (được thực hiện trên phạm vi cả nước);
- Tăng cường các hoạt động giám sát, đánh giá các chính sách, chương trình giảm nghèo.
Tiếp tục đổi mới cơ chế thực hiện các chính sách trợ giúp người nghèo và Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, theo hướng:
Một là, thực hiện cơ chế phân cấp quản lý và sử dụng kinh phí cho cấp huyện, xã theo hình thức hỗ trợ kinh phí trọn gói có mục tiêu và giao quyền quyết định sử dụng nguồn kinh phí đó cho mục tiêu giảm nghèo và phát triển bền vững ở địa phương. Thực hiện nguyên tắc làm cái gì, làm như thế nào do địa phương tự quyết định và chịu trách nhiệm trước nhân dân và cấp trên
Hai là, chủ động nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ địa phương, cơ sở, để họ có đủ năng lực cần thiết sử dụng nguồn vốn đó đúng mục tiêu, có hiệu quả, không thất thoát. Bảo đảm tính công khai, dân chủ, minh bạch về tài chính theo nguyên tắc “Dân biết, dân bàn, dân kiểm tra và dân được hưởng lợi”.
Ba là, trên cơ sở nguồn kinh phí được giao và nguồn kinh phí được huy động tại địa phương hoặc lồng ghép nguồn kinh phí từ các chương trình phát triển kinh tế - xã hội khác trên địa bàn, chính quyền địa phương chủ động bố trí ngân sách để giải quyết những nhu cầu bức xúc trên địa bàn theo những mục tiêu của chương trình.
Bốn là, xây dựng cơ chế, quy trình lồng ghép, gắn kết với các chương trình, dự án khác trên địa bàn để tập trung nguồn lực cho mục tiêu giảm nghèo, tránh trùng lắp, chồng chéo.
Năm là, trên cơ sở các chính sách và Chương trình Mục tiêu quốc gia giảm nghèo bền vững, các địa phương cụ thể hóa trong việc xây dựng và tổ chức thực hiện kế hoạch giảm nghèo hằng năm và 5 năm (2011 - 2015) phù hợp với đặc điểm và hoàn cảnh của địa phương mình./.
Chuyển động mới ở Tổng Công ty Viglacera  (31/01/2011)
Quan hệ U-dơ-bê-ki-xtan - EU: Lịch sử sang trang  (31/01/2011)
Điều hành tết  (31/01/2011)
Giới thiệu chính sách mới số 218  (31/01/2011)
Hồi phục kinh tế Mỹ - chặng đường còn dài  (30/01/2011)
Chương trình cụ thể hóa chủ trương thay đổi nước Mỹ  (30/01/2011)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm