Một số giải pháp phát triển dân chủ đại diện ở nước ta hiện nay
Liên quan đến dân chủ đại diện còn các thuật ngữ:
- Dân chủ bầu cử - Electoral Democracy: là một hình thức dân chủ được thiết lập dựa trên việc thực hiện quyền của người dân trong việc lựa chọn đại diện để hành động vì lợi ích của mình. Thuật ngữ này còn được hiểu là nền dân chủ có các cuộc bầu cử tự do được tiến hành định kỳ dưới hình thức bỏ phiếu kín, và tất cả mọi công dân trưởng thành đều có quyền bầu cử.
- Dân chủ thảo luận - Deliberative Democracy: là một hình thức dân chủ dựa trên cơ chế quyết định đồng thuận và dân chủ đại diện. Trái với dân chủ bầu cử chú trọng vào việc bỏ phiếu như là thể chế trung tâm trong một nền dân chủ, dân chủ thảo luận nhấn mạnh cơ sở hay nguồn gốc của các quyết định chính trị là từ sự thảo luận và cân nhắc của toàn thể người dân.
Giải pháp nâng cao năng lực thực hành dân chủ đại diện ở nước ta:
Một là, đối với Quốc hội
Từ năm 1998, các phiên chất vấn với thành viên Chính phủ được truyền hình trực tiếp. Những buổi phát sóng trực tiếp này được nhiều người hưởng ứng, thể hiện mức độ quan tâm của người dân. Quốc hội cũng thể hiện vai trò của mình, phủ quyết hoặc yêu cầu điều chỉnh lại một số dự thảo luật mà Chính phủ đề xuất. Quốc hội cũng đang đóng vai trò lớn hơn trong việc giám sát các hoạt động của Chính phủ, thông qua việc theo dõi đơn thư khiếu nại của công dân.
Tuy vậy, việc theo dõi cách thức chính quyền địa phương giải quyết đơn thư khiếu nại, phê bình của công dân là một nhiệm vụ rất nặng nề đối với Quốc hội. Việc tất cả các cơ quan Quốc hội và đại biểu Quốc hội tham gia giải quyết đơn thư khiếu nại, phê bình của công dân có lẽ là một đặc trưng của Việt Nam. Với con số trung bình khoảng 14.000 đơn thư khiếu nại, phê bình nhận được mỗi năm, các cơ quan và đại biểu Quốc hội thật sự bị quá tải. Nếu Quốc hội thực sự đầu tư thời gian và công sức giám sát mảng này thì sẽ không còn thời gian cho các hoạt động lập pháp.
Để khắc phục tình trạng này, cần xác định lại vai trò của Quốc hội chủ yếu với tư cách cơ quan làm luật, cũng như cần tăng cường hệ thống thanh tra nhà nước độc lập có khả năng theo dõi và giải quyết các đơn thư khiếu nại của công dân.
Mối quan hệ đại diện của các đại biểu Quốc hội với cử tri cũng còn chưa được xác định thực sự rõ. Nhiều người vừa là đại biểu Quốc hội, đại biểu HĐND lại vừa là thành viên của bộ máy hành pháp Trung ương và địa phương. Tình trạng này dễ gây nên mâu thuẫn lợi ích và trách nhiệm giải trình (trách nhiệm giải trình đối với cử tri bầu ra họ và trách nhiệm giải trình đối với đơn vị hành chính nơi họ làm việc?). Do đó, để đại biểu Quốc hội trở nên có trách nhiệm giải trình hơn với cử tri thì cần phải tạo thêm cơ hội để cử tri được tiếp xúc trực tiếp với các đại biểu Quốc hội.
Hai là, lấy phiếu tín nhiệm ở cả Trung ương và cơ sở
Quốc hội hiện có quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với những người đảm nhiệm các vị trí do Quốc hội bầu hoặc phê chuẩn, bao gồm cả Thủ tướng, Chủ tịch nước, và bộ trưởng các bộ. Người dân cũng được quyền bỏ phiếu tín nhiệm đối với các vị trí bầu cử ở địa phương theo Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, thị trấn, phường (năm 2007) và các luật khác. Hằng năm, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam sẽ tổ chức bỏ phiếu tín nhiệm đối với những vị trí chủ chốt. Tuy vậy, những người được tham gia bỏ phiếu tín nhiệm lại chỉ là các thành viên của các tổ chức thành viên thuộc Mặt trận Tổ quốc Việt Nam.
Ở TP. Hồ Chí Minh, việc bỏ phiếu tín nhiệm đối với các vị trí bầu cử đã được thực hiện vào năm 2004 đối với hai cán bộ giữ cương vị chủ tịch HĐND và chủ tịch UBND tại một phường. Tuy vậy, những người được mời bỏ phiếu tín nhiệm chỉ là đảng viên và uỷ viên Mặt trận Tổ quốc phường - tổng cộng chỉ vài chục người trong khi số dân của phường là vài nghìn người.
Ý nghĩa của việc bỏ phiếu tín nhiệm là nhằm mục đích tăng cường sự kiểm soát của cử tri đối với các cán bộ được bầu. Ngay cả khi những người được chọn để tham gia bỏ phiếu có thể quyết định phế truất ai đó, thì hệ quả duy nhất theo luật định là Mặt trận Tổ quốc sẽ đề xuất để HĐND cùng cấp xem xét miễn nhiệm những cán bộ đảm nhiệm các vị trí đó. Tức là, cho dù một cán bộ có thể bị bỏ phiếu bất tín nhiệm thì cũng không tự động dẫn tới sự phế truất.
Do đó, cần có sự đổi mới cách thức nhân dân bỏ phiếu tín nhiệm theo hướng bảo đảm để người dân thực sự thực hiện được quyền của mình như quy định của pháp luật.
Ba là, cần có kết luận về chủ trương bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch UBND ở cấp xã và địa phương không tổ chức HĐND
Văn kiện Đại hội XI của Đảng xác định: “Tổng kết việc thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND quận, huyện, phường; đại hội đảng các cấp trực tiếp bầu bí thư cấp ủy; nhân dân trực tiếp bầu người đứng đầu chính quyền cấp xã, nhất thể hóa hai chức danh bí thư cấp ủy và chủ tịch UBND. Trên cơ sở đó... phát huy quyền làm chủ của nhân dân, nhất là dân chủ trực tiếp”(1). Theo phương hướng này cần triển khai:
- Ở những nơi thực hiện thí điểm phải bám sát nội dung Hướng dẫn số 25-HD/BTCTW của Ban Tổ chức Trung ương, nhằm chủ động giải quyết những khó khăn, vướng mắc, phát huy sức mạnh tổng hợp của hệ thống chính trị tại địa phương, tập trung thực hiện để có cơ sở đánh giá chính xác hơn. Tiếp tục tuyên truyền để cán bộ, đảng viên hiểu hơn về chủ trương thí điểm, từ đó đồng thuận thực hiện. Trong công tác cán bộ, bí thư - chủ tịch cần tự xác định rõ trách nhiệm của mình, xây dựng kế hoạch, chương trình bảo đảm hài hòa giữa hai vị trí công tác, đồng thời là trung tâm đoàn kết, phát huy sức mạnh tập thể cấp ủy và thường trực UBND; phân công, giao trách nhiệm, kiểm tra cán bộ trong bộ máy giúp việc, nhất là đối với phó bí thư thường trực cấp ủy, phó chủ tịch thường trực UBND.
- Cấp ủy cấp trên trực tiếp của các đơn vị thí điểm (tỉnh ủy đối với quận, huyện; huyện ủy, quận ủy đối với phường, xã) cần tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn các đơn vị làm điểm và phải làm tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, động viên kịp thời đối với cán bộ kiêm nhiệm. Xây dựng quy chế kiểm tra, giám sát của cấp ủy cấp trên trực tiếp và của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội tại đơn vị thí điểm (nhất là ở những nơi đang thí điểm không tổ chức HĐND), nhằm khắc phục tình trạng cán bộ kiêm nhiệm chuyên quyền, độc đoán chọn việc hoặc bỏ sót việc. Tổ chức thực hiện, vận dụng sáng tạo các chế độ, chính sách kịp thời theo quy định của Trung ương và thế mạnh của địa phương, nhằm tạo cho bí thư - chủ tịch và các phó thường trực có điều kiện thuận lợi nhất trong thực thi nhiệm vụ. Chủ động sơ kết, tổng kết đánh giá cụ thể ưu điểm, nhược điểm để bổ sung các giải pháp mới sau mỗi năm thực hiện.
- Bộ Chính trị, Ban Bí thư sớm có kết luận về mô hình thí điểm “Bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch UBND ở cấp xã và địa phương không tổ chức HĐND”. Cuối nhiệm kỳ này, Quốc hội cũng cần có kết luận về việc thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường; tổ chức và hoạt động của HĐND, UBND tại những địa phương thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường. Đây sẽ là căn cứ để Ban Tổ chức Trung ương, Chính phủ, Bộ Nội vụ và các ban, bộ, ngành có liên quan triển khai cụ thể hóa các nội dung để thực hiện, như ban hành các nghị định, quy định, hướng dẫn về công tác cán bộ; xây dựng quy chế mẫu của cấp ủy, UBND, HĐND các cấp khi thực hiện bí thư cấp ủy đồng thời là chủ tịch UBND; xây dựng chế độ, chính sách đối với cán bộ kiêm nhiệm một cách hợp lý.
Bốn là, thực hiện việc giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội đối với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước
Để tăng cường hơn nữa vai trò giám sát của Mặt trận, việc đầu tiên là bổ sung một số văn bản, quy định, một số văn bản ký kết liên tịch giữa Chính phủ với Mặt trận Tổ quốc để quy định rõ việc giám sát của Mặt trận Tổ quốc, tổ chức quần chúng khi không tổ chức HĐND. Tất nhiên, việc giám sát của Mặt trận khác với giám sát của HĐND trước đây. Nhưng Mặt trận có vai trò tập hợp ý kiến phản ánh của người dân và giám sát quá trình giải quyết các kiến nghị của nhân dân, sẽ giúp dân chủ thực hiện một cách triệt để hơn.
Cần sớm ban hành Luật Giám sát của HĐND, có hướng dẫn cụ thể về cơ chế giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức đoàn thể các cấp, sớm xây dựng quy chế phối hợp giữa các cấp chính quyền với nhau, nhất là trong điều kiện bí thư kiêm chủ tịch quận; giữa cấp ủy, UBND trong mối quan hệ Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý để ngăn chặn được tình trạng lợi dụng, lạm dụng quyền lực. Nếu không có cơ chế kiểm tra của cấp ủy, giám sát của HĐND cấp trên, của đoàn đại biểu Quốc hội thì việc lạm dụng, lợi dụng quyền lực có thể xảy ra.
Thông qua đó, “tiếp tục xây dựng, từng bước hoàn thiện cơ chế kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công quyền”(2) nhằm thúc đẩy việc xây dựng, hoàn thiện Nhà nước pháp quyền XHCN trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật.
Năm là, phát triển và “phát huy sự đa dạng về tổ chức và đổi mới phương thức hoạt động của các tổ chức đoàn thể, các tổ chức phi chính phủ… khắc phục tình trạng hành chính hoá các tổ chức quần chúng; phát triển nhiều hình thức tự quản của dân hoạt động theo pháp luật”(3). Thông qua đó “hoàn thiện cơ chế để nhân dân đóng góp ý kiến, phản biện xã hội và giám sát công việc của Đảng và Nhà nước”(4)
Trong công cuộc đổi mới, quá trình dân chủ hoá đã được thúc đẩy một bước rất quan trọng, trước hết thông qua phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN. Song dân chủ có lúc, có nơi vẫn còn hình thức. Các tổ chức chính trị - xã hội hay chính trị - xã hội - nghề nghiệp,… hoạt động chưa hiệu quả, nhiều khi mang tính hình thức, không đi vào thực chất. Không ít tổ chức dân lập, tự quản hình thành tự phát...
Một vấn đề nổi cộm hiện nay là ở nơi nào phát triển các tổ chức xã hội theo kiểu dân lập, tự quản một cách tự phát thì ở đó có sự thu hẹp vai trò của các tổ chức chính trị - xã hội, kể cả vai trò quản lý bằng luật pháp của Nhà nước và vai trò lãnh đạo của Đảng. Vì thế, phải nghiên cứu mối quan hệ giữa giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội trong hệ thống chính trị với sự phát triển khi có những phát triển của các tổ chức dân sự, trong đó, cần đặc biệt chú ý tới nguy cơ làm suy yếu hệ thống chính trị, đặc biệt vai trò lãnh đạo của Đảng. Đồng thời, cần định hướng và điều tiết các luồng tư tưởng, ý kiến khác nhau trong xã hội vào hệ thống giám sát, phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội thuộc hệ thống chính trị trong điều kiện một Đảng cầm quyền.
Việc thực hiện dân chủ qua “kênh” dân vận, nhất là của các tổ chức đoàn thể, ngày càng chiếm vị trí quan trọng trong điều kiện không tổ chức HĐND huyện, quận, phường. “Dân vận” là một thuật ngữ cơ bản của dân chủ; và thường được hiểu là sự vận động người dân tham gia tích cực các công việc của Nhà nước và xã hội. Các tổ chức đoàn thể liên quan tới công tác dân vận giữ vị trí trung gian giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Tổ chức đoàn thể có thành viên và tổ chức xuống tới mọi làng ở nông thôn và phường, tổ dân phố ở đô thị. Các tổ chức đoàn thể đại diện cho các thành phần xã hội trước các cơ quan nhà nước, và đồng thời các tổ chức đoàn thể là một “kênh” để các chính sách của Nhà nước có thể thẩm thấu xuống những người dân bình thường - chính là thành viên của các tổ chức đoàn thể. Các tổ chức đoàn thể cũng có vai trò quan trọng trong công tác quản lý nhà nước và vai trò xã hội quan trọng. Một số tổ chức đoàn thể (ví dụ hội Phụ nữ) đã trở thành nhà cung cấp dịch vụ phúc lợi, giúp các hội viên tiếp cận được nguồn tín dụng hoặc vật tư nông nghiệp…
Vì thế, cần nhìn nhận các tổ chức đoàn thể như một trong các “kênh” chính để người dân có thể tiếp cận các công việc quản lý của Nhà nước. Cách thức bầu cử của các tổ chức đoàn thể mang tính dân chủ, vì lãnh đạo các tổ chức này là hội viên được lựa chọn từ các cấp thấp nhất. Nhiều lãnh đạo các tổ chức đoàn thể đồng thời cũng được bầu vào HĐND ở địa phương. Cho nên, khi thực hiện thí điểm không tổ chức HĐND huyện, quận, phường tại một số địa phương thì người dân vẫn có các “kênh” tổ chức đoàn thể để tham gia vào một số công việc của Nhà nước, trước hết ở địa phương. Cụ thể, các tổ chức đoàn thể phổ biến thông tin của Đảng và Nhà nước tới người dân để thảo luận tại các cuộc họp địa phương và phối hợp với UBND để tổ chức lấy ý kiến nhân dân về các chính sách qua các cuộc họp hoặc các phiếu thu thập ý kiến. Các tổ chức đoàn thể ở cấp địa phương hỗ trợ trưởng thôn và các cán bộ dân cử khác tổ chức các cuộc họp địa phương và tổ chức bỏ phiếu tín nhiệm hằng năm đối với những cán bộ được bầu cử vào các vị trí chủ chốt. Các tổ chức đoàn thể cũng đóng vai trò lớn trong việc thực hành dân chủ đại diện bằng việc giám sát quy trình lập danh sách ứng cử viên, bầu cử vào các cơ quan dân cử.
Tuy nhiên, cũng cần khắc phục một số vấn đề về năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ các tổ chức đoàn thể cũng như mức độ độc lập của các tổ chức này đối với cơ quan nhà nước, nâng cao vai trò của họ trong quá trình ra quyết định ở các cấp./.
------------------------------------------
(1), (2), (4) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. tr.145; tr.247; tr.145
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H. tr.255.
Mười năm thực hiện Chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xóa đói, giảm nghèo ở Việt Nam: Thành quả - cơ hội - thách thức  (28/06/2013)
Các đồng chí lãnh đạo tiếp xúc cử tri tại Hà Nội và Hà Tĩnh  (28/06/2013)
Hoạt động của Chủ tịch nước tại Cộng hòa Indonesia  (28/06/2013)
Việt Nam cùng các nước xây dựng ASEAN đoàn kết, vững mạnh, vì hòa bình, an ninh và phát triển thịnh vượng  (28/06/2013)
- Bảo đảm quyền lợi của người lao động trong mô hình kinh tế chia sẻ
- Vai trò của Nhà nước trong giải quyết mối quan hệ giữa phát triển kinh tế - xã hội với phục dựng, bảo tồn di sản văn hóa
- Hoàn thiện một số quy định của Luật Hòa giải, đối thoại tại tòa án, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp theo tinh thần Đại hội XIII của Đảng
- Hợp tác Việt Nam - Liên minh châu Âu trong bảo đảm an ninh lương thực: Cơ hội và thách thức
- Tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong bối cảnh mới
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay