TCCSĐT - Vì nhiều lý do khác nhau, một số lượng không nhỏ nhân tài Việt Nam, từ các doanh nhân, nhà khoa học, chính trị gia, nghệ sĩ,… hiện đang sống và làm việc tại nước ngoài. Đồng thời, trong bối cảnh toàn cầu hóa, với sự vươn mình mạnh mẽ, Việt Nam cũng đang trở thành điểm đến thu hút nhân lực là người nước ngoài. Đây là những nguồn nhân lực, nhân tài quan trọng trong sự nghiệp xây dựng đất nước.

Nguồn nhân lực, nhân tài là Việt kiều và người nước ngoài

 

Nhân lực, nhân tài là đồng bào Việt Nam tại nước ngoài

 

Đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước Việt Nam khẳng định đồng bào ta ở nước ngoài là một bộ phận quan trọng, không thể tách rời của dân tộc, cùng với đồng bào trong nước thực hiện mục tiêu chung là phát triển kinh tế - xã hội của Tổ quốc; đóng góp vào ngoại giao nhân dân. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng khẳng định: “Đồng bào định cư ở nước ngoài là một bộ phận không tách rời của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Nhà nước ban hành cơ chế, chính sách để hỗ trợ, giúp đỡ đồng bào ổn định cuộc sống, phát triển kinh tế, góp phần tăng cường hợp tác, hữu nghị giữa nhân dân ta với nhân dân các nước; tạo điều kiện để đồng bào giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, hướng về Tổ quốc, đóng góp xây dựng đất nước”(1). Đối với đội ngũ tri thức Việt kiều, Nghị quyết số 27-NQ/TW, ngày 26-8-2008, về xây dựng đội ngũ trí thức trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước cũng khẳng định, một bộ phận của trí thức Việt Nam là những trí thức Việt kiều và: “Ða số trí thức Việt Nam ở nước ngoài luôn hướng về Tổ quốc; nhiều người đã về nước làm việc, hoạt động trong các lĩnh vực khác nhau, có những đóng góp thiết thực vào sự nghiệp phát triển đất nước”(2).

 

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh là tấm gương sáng trong việc thu hút, huy động nhân tài từ nước ngoài trở về phục vụ cách mạng. Người kêu gọi cần “tập hợp rộng rãi các loại cán bộ, trọng dụng nhân tài, không phân biệt đảng viên hay người ngoài Đảng, dân tộc, tôn giáo, người ở trong nước hay người định cư ở nước ngoài”.  Theo lời mời gọi của Bác, nhiều nhân tài đã trở về nước phục vụ cách mạng.

 

Hiện nay có khoảng 4,5 triệu người Việt Nam sống, lao động và học tập tại 103 quốc gia và vùng lãnh thổ. Phần lớn trong số đó có mặt tại các quốc gia, vùng lãnh thổ có nền kinh tế phát triển, có điều kiện tiếp cận với các tri thức hiện đại của thế giới, như Mỹ, Pháp, Úc, Ca-na-đa, Đài Loan, Đức,… Trong số kiều bào, không ít người thành đạt, tạo tên tuổi, dấu ấn trong nhiều lĩnh vực khác nhau từ chính trị, văn hóa, khoa học, đến kinh doanh,… Trung bình mỗi năm có khoảng 500 nghìn lượt kiều bào về thăm quê hương, hàng nghìn lượt doanh nhân Việt kiều tìm kiếm cơ hội kinh doanh, hàng trăm lượt chuyên gia, trí thức về tham gia nghiên cứu, giảng dạy, hợp tác nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ,… Đến nay, Việt kiều tham gia góp vốn vào 3.500 doanh nghiệp, với tổng số vốn đăng ký khoảng 8,4 tỷ USD. Kiều hối gửi về nước tăng trung bình 10% - 15%/năm, từ mức 3 tỷ USD năm 2004 tăng lên 7,4 tỷ USD năm 2008, 8,4 tỷ USD năm 2010; riêng 6 tháng đầu năm 2012 đạt khoảng 6,4 tỷ USD(3).

 

Nhân lực, nhân tài là người nước ngoài

 

Sau hơn 26 năm đổi mới, Việt Nam đã đạt những thành tựu phát triển đáng ghi nhận trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Đất nước ta đã ở trong nhóm nước có thu nhập trung bình, đang bước vào thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa với mục tiêu đến năm 2020 cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Việt Nam là một nền kinh tế mới nổi, với dân số đông - thị trường tiêu thụ sản phẩm, thị trường lao động tốt, tài nguyên thiên nhiên phong phú, nhiều tiềm năng về du lịch, văn hóa,…; nền chính trị - xã hội ổn định - được công nhận là quốc gia hòa bình; Việt Nam cũng được nhiều sinh viên, học sinh nước ngoài lựa chọn là điểm đến để học tập,…  Những  thuận lợi cơ bản đó đã tạo sức hấp dẫn đối với nguồn nhân lực bên ngoài, thu hút được ngày càng đông người nước ngoài tới Việt Nam.

 

Theo thống kê của Cục Việc làm, Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội, đến nay có khoảng hơn 70.000 người nước ngoài làm việc tại Việt Nam. Họ đến từ hơn 60 quốc gia và vùng lãnh thổ; khoảng 58% đến từ châu Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc, Ma-lay-xi-a…), khoảng 28,5% từ châu Âu (Anh, Pháp…), còn lại từ các châu lục khác là khoảng 13,5%. Phần lớn người nước ngoài đến từ các quốc gia có trình độ phát triển cao hơn Việt Nam.

 

Về trình độ, cơ cấu nghề nghiệp, người nước ngoài có trình độ đại học và trên đại học chiếm 48,3% so với tổng số người nước ngoài làm việc tại Việt Nam, có chứng chỉ, chuyên môn tay nghề chiếm 34,6%, là nghệ nhân, ngành nghề truyền thống chiếm 17,1%. Cũng theo thống kê này thì lượng người nước ngoài vào Việt Nam làm việc luôn có xu hướng năm sau tăng hơn năm trước.

 

Trên thực tế, Việt Nam cũng đang thiếu nhân lực trình độ cao trong nhiều lĩnh vực khác nhau nên việc thu hút nguồn lực từ lao động nước ngoài là cần thiết, vừa đáp ứng nhu cầu trong nước, vừa tạo cơ hội cho lao động trong nước có thể giao lưu, học hỏi.

 

Những vấn đề đặt ra

 

Để xây dựng thành công xã hội chủ nghĩa thì yếu tố quan trọng nhất là con người, cách mạng xã hội chủ nghĩa lấy mục tiêu vì con người và con người cũng chính là chủ thể cách mạng. C. Mác - V.I. Lê-nin cũng chỉ rõ để thực hiện cách mạng thì quan trọng cốt lõi là phải có lực lượng sản xuất tiên tiến, trong đó nhấn mạnh vai trò của tri thức. V.I. Lê-nin trong quá trình lãnh đạo đất nước cũng luôn đề cao việc thu hút nhân tài, kể cả đội ngũ nhân tài bên ngoài, từ các nước tư bản chủ nghĩa. Ở Việt Nam, từ xa xưa ông cha ta đã đúc kết “hiền tài là nguyên khí quốc gia”, và kết luận: vận nước thịnh hay suy là bởi nhân tài.

 

Kế thừa những tư tưởng đó, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã có rất nhiều lời nói, tác phẩm bàn về vai trò của con người đối với cách mạng, vai trò của nhân lực, nhân tài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Người cũng là tấm gương trong việc đãi ngộ và sử dụng nhân tài. Từ thực tiễn thời kỳ cách mạng dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Chủ tịch Hồ Chí Minh cho thấy, không phải vấn đề kinh tế quyết định việc thu hút được nhân tài. Nhân lực, nhân tài đã được Bác huy động nhằm mục đích kháng chiến, kiến quốc, hy sinh lợi ích bản thân vì tương lai quốc gia, dân tộc; xây dựng trên cơ sở chủ nghĩa yêu nước. Đồng thời, Bác cũng đã kêu gọi được không ít chuyên gia là người nước ngoài tới phục vụ sự nghiệp cách mạng của Việt Nam.

 

Hiện nay, do trình độ phát triển của Việt Nam còn thấp nên tình trạng chảy máu chất xám đang diễn ra khá phức tạp. Chúng ta lại chưa tận dụng được hết tiềm năng chất xám trong nước cũng như thu hút những nguồn lực từ bên ngoài, nhất là trong kiều bào Việt Nam trên thế giới. Nhiều nguyên nhân khác nhau đã được chỉ ra, nhưng trước khi đề cập giải pháp, có thể kể hai trường hợp quốc gia từng có nhiều điểm tương đồng với Việt Nam hiện nay nhưng đã rất thành công trong việc giữ gìn, xây dựng, thu hút nhân tài.

 

Nhật Bản ở thế kỷ XIX là quốc gia phong kiến châu Á bị phương Tây “nhòm ngó” và ở khoảng giữa thế kỷ XX, đất nước bị tàn phá nặng nề sau chiến tranh. Nhưng cả hai lần, Nhật Bản đều vượt qua khủng hoảng bởi cùng một chính sách: đào tạo, giáo dục tạo nguồn nhân lực, nhân tài phục vụ quốc gia, dân tộc. Nhật Bản không chỉ thành công trong việc tạo ra xã hội học tập mà còn nêu cao được tinh thần hết lòng hết sức phụng sự Tổ quốc, tránh tình trạng chảy máu nhân tài. Nhân lực, nhân tài được Nhật Bản tạo ra đều coi mục đích góp phần chấn hưng, phát triển đất nước là nhiệm vụ cao cả trong mỗi cá nhân.

 

Xin-ga-po lại là quốc gia tiêu biểu cho việc thu hút nguồn nhân lực bên ngoài. Trước khi đạt trình độ phát triển như hiện nay, Xin-ga-po cũng có xuất phát điểm thấp, thậm chí tài nguyên thiên nhiên hầu như không có; nếu xét kinh tế, đất nước này không thể cạnh tranh được với các nước phát triển về thu hút nhân tài. Nhưng với chính sách mềm dẻo, hợp lý, thực sự cầu thị, tạo môi trường làm việc thuận lợi tối đa cho nhân tài, Xin-ga-po đã thu hút được một đội ngũ nhân tài hùng hậu từ khắp nơi trên thế giới. Từ đó, quốc gia này đã đạt sự phồn thịnh như ngày hôm nay.

 

Những ví dụ trên đều cho thấy, để xây dựng quốc gia giàu mạnh thì nhân lực, nhân tài đóng vai trò quan trọng mang tính quyết định. Đồng thời, việc thu hút nhân tài có thành công hay không phụ thuộc vào chính sách, sách lược của các quốc gia; điều kiện kinh tế không phải là cái quyết định.

 

Trong bối cảnh toàn cầu hóa kinh tế thế giới ngày một sâu sắc, Việt Nam ngày càng hội nhập sâu rộng với quốc tế, quá trình chảy máu chất xám và thu hút nhân lực bên ngoài diễn ra song hành. Một mặt chúng ta phải cố gắng giữ chân nhân tài, nhất là trong những lĩnh vực Việt Nam còn thiếu và yếu, mặt khác cần xây dựng chính sách thu hút nhân tài nhằm tăng cơ hội tiếp thu tinh hoa văn hóa, tiếp cận trình độ khoa học - công nghệ hiện đại của nhân loại. Ưu điểm chung của hai nhóm nhân lực Việt kiều và người nước ngoài là phần lớn được giáo dục, đào tạo, tiếp cận với khoa học - công nghệ, tri thức hiện đại hơn so với tại Việt Nam. Điều đó càng đòi hỏi Việt Nam cần thu hút được hai nguồn nhân lực quan trọng này.

 

Một số giải pháp thu hút nguồn nhân lực, nhân tài Việt kiều và người nước ngoài

 

Mục tiêu tổng quát về phát triển đất nước được đề ra tại Đại hội Đảng XI là đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; chính trị, xã hội ổn định, dân chủ, kỷ cương, đồng thuận; đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt; độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ được giữ vững; vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế tiếp tục được nâng lên; tạo tiền đề vững chắc để phát triển cao hơn trong giai đoạn sau. Để thực hiện mục tiêu đó, Đảng ta đã xác định một trong ba khâu đột phá chiến lược là phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao - xây dựng và phát huy sức mạnh của đội ngũ trí thức.

 

Trên cơ sở định hướng đó, việc thu hút nhân lực, nhân tài là Việt kiều và người nước ngoài là điều quan trọng; bên cạnh chiến lược xây dựng nhân lực trong nước. Xét về thuận lợi, thì việc có hơn 4 triệu kiều bào sinh sống, học tập, lao động tại nước ngoài là lợi thế không nhỏ đối với việc phát triển nhân lực Việt Nam.

 

Trong bối cảnh đất nước còn ở trình độ nước đang phát triển, tuyển chọn nhân tài vẫn còn ở vào thế “liệu cơm gắp mắm”, để thu hút được nhân lực, nhân tài từ bên ngoài, xin đề xuất một số nhóm giải pháp sau:

 

- Xây dựng hệ thống cơ chế, chính sách hợp lý, có những ưu đãi thể hiện sự cầu thị, tôn trọng việc thu hút nhân tài.

 

Theo nhiều cuộc điều tra, khảo sát, ý kiến nhiều nhà nghiên cứu nhân lực thì đây là yếu tố cốt lõi, quan trọng nhất nhằm thu hút nhân lực. Theo các chuyên gia nghiên cứu thì khi quyết định chọn nơi làm việc, phần đông người lao động, nhất là những nhân tài, đều đặt vấn đề hàng đầu là môi trường làm việc và cơ hội phát triển trình độ, khả năng thăng tiến. Trong môi trường làm việc thì yếu tố quan trọng nhất là vai trò người đứng đầu nhóm, đơn vị, tổ chức, bên cạnh đó là phong cách làm việc của nhóm, ê-kíp.

 

Những vấn đề này chỉ có thể được xây dựng bởi chiến lược, sách lược phát triển từ vĩ mô cấp nhà nước tới vi mô các địa phương, đơn vị, tổ chức sử dụng nhân lực. Các chiến lược, sách lược một mặt cần thể hiện rõ thái độ cầu thị, tôn trọng nhân lực, nhân tài, mặt khác cần bảo đảm sự ổn định bền vững để tạo sự yên tâm trong quá trình lao động. Các chính sách, sách lược với nội dung khoa học sẽ tạo điều kiện để có một môi trường lao động lành mạnh, tạo cơ hội tốt cho nhân tài có thể phát huy tài năng và thăng tiến bằng tài năng của mình.

 

- Xây dựng cơ sở vật chất, chế độ đãi ngộ tương xứng dành cho nhân tài.

 

Bên cạnh hệ thống cơ chế chính sách phù hợp để nhân lực, nhân tài phát triển thì cơ sở vật chất tương xứng là điều kiện cần được bảo đảm. Bởi chỉ có cơ sở vật chất tương đối đầy đủ, hiện đại, về cơ bản đáp ứng được nhân tài thì mới thu hút họ về làm việc. Trong những lý do chính được nêu của tình trạng chảy máu chất xám, nhân tài không cống hiến cho đất nước, là bởi họ cho rằng không có khả năng phát triển với điều kiện cơ sở vật chất nghèo nàn, thiếu thốn. Việc xây dựng cơ sở vật chất phù hợp là cần thiết và thực tế nguồn lợi thu được từ việc đầu tư này lại là rất lớn. Trong điều kiện nước ta, chỉ cần giảm bớt một số mặt lãng phí, đầu tư dàn trải hiệu quả thấp, là hoàn toàn có thể đủ khả năng xây dựng những hệ thống cơ sở vật chất tương đối tốt cho nhân tài công tác.

 

Chế độ tiền lương và các đãi ngộ khác cũng là điều rất quan trọng. Tiền lương dù không phải là lý do số một để thu hút nhân tài nhưng là biểu hiện của sự cầu thị, đánh giá đúng năng lực nhân tài; bảo đảm nhân lực, nhân tài có thể sống tương đối tốt so các nhóm xã hội khác. Việt Nam, dù không thể cạnh tranh được với các quốc gia phát triển về mức lương đãi ngộ nhân tài, nhưng cần có những chính sách đáp ứng tương đối thỏa đáng đối với nhu cầu của nhân lực, nhân tài, tương xứng sự đóng góp của họ. Mặt khác, cũng cần nhận thấy nhân tài chỉ là nhóm nhỏ trong xã hội nên việc tập trung đầu tư không những không ảnh hưởng nhiều tới ngân sách mà nguồn lợi thu về rất lớn.

 

- Tăng cường giao lưu, hội nhập với trình độ nguồn nhân lực của thế giới.

 

Việc tăng cường liên kết sẽ tạo điều kiện để phối hợp, tận dụng cơ sở vật chất hiện đại bên ngoài. Trong chừng mực nào đó, khi công tác ngoài nước, nhân tài vừa có môi trường làm việc tốt, vừa vẫn cống hiến được cho đất nước. Điều đó cũng giúp kiều bào và lao động nước ngoài có thể lập tức làm việc hiệu quả khi tham gia lao động tại Việt Nam.

 

- Phát triển xã hội học tập, hình thành một quốc gia coi trọng học tập, nghiên cứu; tôn sư trọng đạo, coi trọng nhân tài.

 

Việt Nam là một quốc gia có truyền thống hiếu học, Đảng và Nhà nước cũng luôn coi giáo dục là quốc sách hàng đầu và dành nhiều đầu tư cho giáo dục. Vấn đề là cần xây dựng một môi trường học tập thực chất, không mang tính hình thức, không chạy đua thành tích giả thay vì chất lượng thật. Điều này không chỉ giúp xây dựng, phát triển tích cực nguồn nhân lực mà cũng có ý nghĩa tạo môi trường thuận lợi để nhân lực, nhân tài làm việc, thu hút họ tới Việt Nam. 

 

- Kêu gọi tinh thần yêu nước, phụng sự Tổ quốc đối với nhân lực, nhân tài là Việt kiều.

 

Đa số Việt kiều đang sống, học tập, làm việc tại các nước phát triển. Nhân lực, nhân tài từ Việt kiều có trình độ cao, nhiều người đã thành danh trong lĩnh vực của mình, được cộng đồng quốc tế đánh giá cao. Trong bối cảnh trong nước còn rất nhiều khó khăn, kinh tế yếu kém, chế độ đãi ngộ nhân tài còn chưa cạnh tranh được với những quốc gia phát triển, thì kêu gọi tinh thần yêu nước đóng vai trò quan trọng trong thu hút nhân lực trở về xây dựng đất nước. Dân tộc Việt Nam là dân tộc “duy tình”, trọng tình cảm. Đồng bào ta ở nước ngoài luôn hướng về Tổ quốc, về nơi chôn rau cắt rốn và muốn có cơ hội quay về xây dựng quê hương. Cần kêu gọi mạnh mẽ tinh thần yêu nước, ý thức tự hào dân tộc, để nhân lực, nhân tài trở về Việt Nam. Tinh thần yêu nước cũng là yếu tố quan trọng để giữ chân họ tiếp tục cống hiến cho Tổ quốc./.

-----------------------------

1. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 245

2. Xem: http://tapchicongsan.org.vn/Home/Tri-thuc-viet-nam/Tri-thuc/2011/11984/Nghi-quyet-so-27NQTW-ngay-682008-Hoi-nghi-lan-thu-bay-Ban.aspx

3.Xem:http://www.ubvk.hochiminhcity.gov.vn/web/guest/nguoi-viet-bon-phuong?p_p_id=EXT_ARTICLEVIEW&p_p_lifecycle=0&p_p_col_id=center-left-1&p_p_col_count=2&_EXT_ARTICLEVIEW_groupId=10217&_EXT_ARTICLEVIEW_articleId=95290&_EXT_ARTICLEVIEW_version=1.0&_EXT_ARTICLEVIEW_redirect=%2Fweb%2Fguest%2Fhome