Phát triển thị trường tài chính nông thôn vùng Đồng bằng sông Cửu Long
TCCSĐT – “Tính đến 31-12-2011, dư nợ cho vay nông nghiệp, nông thôn ước đạt 477,492 nghìn tỷ đồng, tăng trưởng tới 25,26% so với năm trước, chiếm 20% tỷ trọng so với cho vay nền kinh tế”(1). Đó là những tín hiệu lạc quan thể hiện các thành tựu đã đạt được trong thời gian qua. Bên cạnh đó còn những hạn chế nhất định, cản trở việc tiếp cận dịch vụ tài chính nông thôn. Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi chỉ đề cập hoạt động của thị trường tài chính nông thôn ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) để từ đó đề xuất các giải pháp nhằm phát triển thị trường tài chính nông thôn, góp phần khơi thông các nguồn lực phục vụ cho phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Mục tiêu của tài chính nông thôn
Tài chính nông thôn đề cập các giao dịch tài chính liên quan đến cả hai hoạt động nông nghiệp và phi nông nghiệp diễn ra giữa các hộ gia đình và các tổ chức tài chính trong khu vực nông thôn. Trong một số trường hợp nhất định, khái niệm tài chính nông thôn được sử dụng đồng nghĩa với tín dụng nông nghiệp. Một quan điểm toàn diện và hiệu quả hơn về tài chính nông thôn bao gồm tất cả các dịch vụ tài chính mà nông dân và hộ gia đình nông thôn yêu cầu, không chỉ là tín dụng(2).
Tài chính nông thôn có những mục tiêu chính sau:
Thứ nhất, từ cấp độ vi mô: Tăng cường tính bền vững của các nhà cung cấp dịch vụ tài chính đồng thời tạo điều kiện thuận lợi trong việc chia sẻ các nguồn lực tài chính, bảo đảm thông tin minh bạch, đặc biệt là chi phí lãi vay có hiệu quả. Đối với khách hàng việc phát triển tài chính nông thôn nhằm mục đích làm cho khách hàng có khả năng tự lập dự án bằng cách cho phép họ tham gia thiết kế các dự án kinh doanh khả thi, tăng cường sự hiểu biết của họ về dịch vụ và sản phẩm tín dụng thông qua đào tạo và truyền thông.
Thứ hai, từ cấp cơ sở hạ tầng tài chính: thực hiện hỗ trợ cho các tổ chức, chẳng hạn như các hiệp hội, các tổ chức tín dụng để có thể cung cấp chuyên nghiệp và bảo đảm hiệu quả chi phí tài chính, dịch vụ kỹ thuật tài chính và cải thiện tính minh bạch của thị trường.
Thứ ba, từ cấp độ chính sách và thể chế: Cải thiện khung pháp lý, cho phép một loạt các nhà cung cấp dịch vụ tài chính có thể tiếp cận những đối tượng khách hàng có thu nhập thấp với sản phẩm và dịch vụ phù hợp với người dân nông thôn, nhất là những nông dân nghèo.
Đánh giá về chính sách tài chính nông thôn tại Việt Nam và Đồng bằng sông Cửu long
Để đánh giá thực trạng, tác giả đã chọn khảo sát 40 ngân hàng thương mại Việt Nam về tỷ lệ dư nợ cho vay nông nghiệp, mạng lưới điểm giao dịch, mạng lưới ATM ở ĐBSCL. Đồng thời, tác giả cũng căn cứ vào các báo cáo thường niên, báo cáo tài chính, thông tin trên trang web của ngân hàng; báo cáo của Tổng cục Thống kê về điều tra mức sống dân cư ở ĐBSCL và Bảo hiểm Tiền gửi Việt Nam về Quỹ tín dụng nhân dân.
Tài chính nông thôn Việt Nam nói chung và Tài chính nông thôn khu vực ĐBSCL nói riêng có một số đặc điểm sau:
Thứ nhất, khống chế trần lãi suất huy động kéo theo đó giảm lãi suất cho vay đặc biệt là khuyến khích giảm lãi suất cho vay khu vực nông thôn.
Thứ hai, chỉ có một số ngân hàng như: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Ngân hàng Phát triển Nhà ĐBSCL là những định chế tài chính được thành lập chủ yếu để phục vụ cho vay nông nghiệp và nông thôn.
Thứ ba, các ngân hàng thuộc sở hữu Nhà nước cũng là những ngân hàng được ưu tiên nhận các dự án cho vay lại từ nguồn vốn vay của Chính phủ Việt Nam, của các tổ chức quốc tế; ưu tiên thực hiện các nhiệm vụ chính trị - xã hội và được nhận các hỗ trợ từ việc thực hiện nhiệm vụ đó. Bên cạnh đó, chính sách của Chính phủ cũng hướng về các định chế tài chính đang dẫn dắt thị trường tài chính nông thôn, như: Ngân hàng NHNN&PTNT và Ngân hàng Chính sách xã hội có quy chế khoanh nợ, xóa nợ (Quyết định số 50/2010/QĐ-TTg ngày 28-7-2010) trong khi đó Quỹ tín dụng nhân dân, các tổ chức tài chính vi mô khác hoạt động ở nông thôn phải tự bù đắp.
Gần đây, chính sách của Chính phủ về nông nghiệp và nông thôn thể hiện rất rõ quan điểm ưu tiên phát triển nông nghiệp, nông thôn thông qua các văn bản quy phạm pháp luật như Nghị định số 41/2010/NĐ-CP, ngày 12-4-2010 về chính sách tín dụng phục vụ phát triển nông nghiệp, nông thôn; Thông tư số 14/2010/TT-NHNN ngày 14-6-2010 hướng dẫn chi tiết thực hiện Nghị định số 41/2010/NĐ-CP; Thông tư 20/2010/TT-NHNN, ngày 29-9-2010 của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam hướng dẫn các biện pháp điều hành công cụ chính sách tiền tệ để hỗ trợ tổ chức tín dụng cho vay phát triển nông nghiệp, nông thôn.
Chính sách này bước đầu đã đem đến nhiều lợi ích cho các định chế tài chính tham gia vào thị trường tín dụng nông thôn, như: NHNN&PTNT, Ngân hàng Kiên Long và Mê Kông được áp dụng tỷ lệ dự trữ bắt buộc bằng 1/5 và Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương có 1/20 so với tỷ lệ dự trữ bắt buộc thông thường tương ứng với từng kỳ hạn tiền gửi, được áp dụng cho tháng 12-2010(3); Quỹ tín dụng nhân dân Trung ương và 4 ngân hàng gồm: NHNN&PTNT, Ngân hàng Bưu điện Liên Việt, Ngân hàng Mê Kông, Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL được giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc chỉ bằng 1/5 thông thường, áp dụng từ tháng 02-2012 đến tháng 7-2012(4).
Thứ tư, các ngân hàng thường chú trọng cho vay sản xuất nông nghiệp mà bỏ qua các nhu cầu vay phi nông nghiệp hoặc vay tiêu dùng, đặc biệt đối với các hộ nghèo. Khảo sát 40 ngân hàng thương mại Việt Nam cho thấy chỉ có 7/40 ngân hàng có sản phẩm riêng cho nông nghiệp, nông thôn. Trong đó ngoài NHNN&PTNT, Bưu điện Liên Việt là ngân hàng có sản phẩm cho vay đa dạng và theo đúng tinh thần Nghị định 41 nhất(5), các ngân hàng khác không có các dịch vụ tài chính phi tín dụng phục vụ cho khu vực nông nghiệp như chuyển tiền mà hiện thời người dân đang rất cần và phải sử dụng các kênh khác như chuyển tiền qua bưu điện hoặc qua các “nhà xe”.
Thứ năm, với quan điểm cho rằng người dân nông thôn không có khả năng tiết kiệm cho nên chỉ chú trọng vào cung cấp dịch vụ tín dụng mà bỏ quên các dịch vụ khác. Điều này hoàn toàn khác với thực tế vì kết quả Điều tra của Tổng cục Thống kê (2011) về mức sống dân cư cho thấy người dân ĐBSCL vẫn tiết kiệm nhưng chủ yếu dưới dạng tích trữ vàng bạc, đá quý (87,9%), mua đất (84,0%), mua nhà cửa vật kiến trúc (52,3%), mua thiết bị sản xuất (50,9%), chơi hụi (42,4%), gửi tiết kiệm (42,7%), giữ tiền mặt (38,9%), mua súc vật (24,3%) nhưng ít sử dụng các tiện ích ngân hàng khác như sổ tài khoản (8,1%), tài khoản vãng lai (0,2%), mua tín phiếu/trái phiếu (2,8%), hội bảo thọ (2,3%), tham gia nhóm tín dụng - tiết kiệm (47,5%).
Thứ sáu, theo Nghị định 41, cơ chế cho vay thông thoáng, mức cho vay lớn, các cá nhân, hộ sản xuất nông, lâm, ngư, diêm nghiệp được xem xét cho vay không có bảo đảm bằng tài sản tối đa đến 50 triệu đồng; các hộ kinh doanh, sản xuất ngành nghề hoặc làm dịch vụ phục vụ nông nghiệp, nông thôn được xem xét cho vay tối đa đến 200 triệu đồng; các HTX, trang trại được xem xét cho vay tối đa đến 500 triệu đồng...; nông dân được vay khép kín từ khâu sản xuất đến tiêu thụ. Tuy nhiên, trên thực tế, dù không thực hiện thế chấp nhưng các ngân hàng lại giữ giấy chứng nhận quyền sử dụng đất để tránh trường hợp khách hàng vay nhiều nơi và để tăng khả năng trả nợ của khách hàng.
Theo khảo sát của PGS, TS. Lê Khương Ninh và Phạm Văn Dương trên 147 hộ trên địa bàn tỉnh An Giang cũng cho thấy 59,9% hộ không vay được tín dụng chính thức là do không có tài sản thế chấp và 23,7% là do không quen biết cán bộ tín dụng(6).
Thứ bảy, chưa có số liệu thống kê tổng hợp và cập nhật để đánh giá việc trợ cấp cho các định chế tài chính thuộc sở hữu Nhà nước. Hiện thời, chỉ có thông tin “Tín dụng trợ cấp chủ yếu qua Ngân hàng Chính sách Xã hội và Ngân hàng Phát triển ước tính khoảng 200 triệu USD mỗi năm”(7).
Cách tiếp cận trên về tài chính nông thôn, đặc biệt là việc can thiệp trực tiếp vào lãi suất đã khiến cầu vốn đối với các ngân hàng thương mại nhà nước (NHTMNN) quá tải và người dân tìm đến Quỹ tín dụng nhân dân, thị trường bán chính thức và phi chính thức. Theo Điều tra của Tổng cục Thống kê (2009), trong 100 xã có 96,9% xã có vay ngân hàng TMNN, 26,2% có vay ngân hàng tư nhân, 55,8% có vay từ quỹ tín dụng nhân dân, 32,1% có vay từ tổ chức chính trị - xã hội, 55,0% có vay từ nhóm cộng đồng, 64,8% có vay từ người cho vay cá thể, 13,4% có vay từ tư thương hoặc người cung cấp đầu vào, 59,3% từ họ hàng/bạn bè và 4,2% từ nguồn khác.
So với mật độ tập trung đông ở các ngân hàng ở các thành phố lớn như TP. Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, ở ĐBSCL các ngân hàng chỉ tập trung ở các tỉnh có GDP cao như Cần Thơ, Kiên Giang, Long An. Các vùng xa trung tâm tỉnh chỉ có các ngân hàng vốn từ lâu gắn với nông thôn như: Phát triển Nhà ĐBSCL (82 điểm giao dịch), NHNN&PTNT, Kiên Long (51 điểm giao dịch), Đại Tín (57 điểm giao dịch)... Hầu hết các ngân hàng thương mại cổ phần ngoài quốc doanh khác đều không mặn mà với việc mở rộng mạng lưới, gia tăng dư nợ đối với khu vực nông thôn nói chung và ĐBSCL nói riêng thể hiện qua số lượng điểm giao dịch tập trung ở khu vực ĐBSCL khá thấp, như: Ngân hàng Sài Gòn Thương tín (79 điểm giao dịch) nhưng dư nợ cho vay ngành nông nghiệp chỉ 10,92% dư nợ, Ngân hàng Đông Á (50 điểm giao dịch, dư nợ 3,87%).
Để phát triển thị trường tài chính nông thôn
Trong thời gian tới, để phát huy hết tiềm năng của thị trường này, góp phần phát triển khu vực nông nghiệp, nông thôn cả nước nói chung, khu vực ĐBSCL nói riêng, cần tập trung vào một số giải pháp sau:
Thứ nhất, Chính phủ cần xác định lại vai trò của mình trong hoạt động tín dụng nông thôn
Do thị trường tín dụng nông thôn còn chưa phát triển, nên Chính phủ vẫn có vai trò can thiệp nhất định để hỗ trợ cho kinh tế nông nghiệp, nông thôn. Tuy nhiên Chính phủ chỉ can thiệp trực tiếp khi các hộ gặp rủi ro do thiên tai và việc hỗ trợ không lâu dài. Chính phủ cần phải đánh giá về tính kinh tế (lợi ích - chi phí) của tổ chức tín dụng, của nông dân, của xã hội, cần có lộ trình giảm dần các khoản lãi suất ưu đãi, xây dựng một chính sách lãi suất hợp lý trên địa bàn nông thôn. Ở các tổ chức tín dụng bán chính thức, năng lực quản lý còn yếu, tâm lý cộng đồng nông thôn vốn dựa trên các mối quan hệ dễ dẫn đến cả nể cho vay mà không có biện pháp chế tài hoàn trả có thể gây ra tình trạng thất thoát vốn.
Thứ hai, hệ thống tài chính nông thôn cần điều chỉnh:
- Bảo đảm tính minh bạch, giải trình của số liệu để có thể đánh giá đúng sự đóng góp vào sự phát triển của thị trường tài chính nông thôn.
- Tăng tính kết nối giữa các phân khúc thị trường, tiếp tục phát triển thị phần, phát triển mạng lưới, phát triển các sản phẩm đặc thù cho vùng nông thôn.
- Thay đổi cách tiếp cận để có thể đến gần dân hơn vì tại ĐBSCL có: (i) trình độ dân trí còn thấp - trong 100% dân số từ 15 tuổi trở lên có 10% chưa bao giờ đến trường, 25,4% không có bằng cấp, 32,8% tốt nghiệp tiểu học, 17% tốt nghiệp trung học cơ sở, 8,1% tốt nghiệp trung học phổ thông, 1,7% sơ cấp nghề, 0,6% trung cấp nghề, 0,2% cao đẳng nghề, 1,7% trung học chuyên nghiệp, 2,4% trình độ cao đẳng và đại học(8); (ii) điểm giao dịch của các ngân hàng thương mại nhà nước và tư nhân thường ít và tập trung ở thị trấn, thị tứ xa chỗ ở của người dân, chi phí đi lại cao.
Do vậy, để hỗ trợ người dân tiếp cận nhiều hơn cần: Thiết kế mẫu dự án đơn giản; tập huấn cho bà con dưới dạng cầm tay chỉ việc để có thể thiết lập một dự án nhỏ; thiết lập cơ chế cho vay đơn giản, rõ ràng để chính sách có thể đến được với người dân nhanh chóng. Ngoài ra cần đa dạng hóa các hình thức huy động vốn, khuyến khích gửi tiết kiệm, tăng cường phát hành trái phiếu, tín phiếu, kỳ phiếu, phát triển dịch vụ kiều hối.
Thứ ba, bản thân người dân cũng cần: hiểu rõ các quy định và quyền lợi trong Nghị định 41; bảo đảm đầy đủ bộ hồ sơ và các thủ tục ngân hàng; xây dựng mối quan hệ tốt với ngân hàng: uy tín tổ chức, uy tín cá nhân, uy tín nhóm, uy tín trong vay và hoàn trả; góp phần tạo dựng tổ chức tài chính vi mô cơ sở do người dân, cho người dân và vì người dân./.
________________________
(1) Nguyễn Minh Tiến (2012): Ưu tiên tín dụng cho nông nghiệp, nông thôn, http://nongthonmoi.gov.vn/07/305/Uu-tien-tin-dung-cho-nong-nghiep-nong-thon.htm
(2) IFAD ((International Fund for Agricultural Development), 2009
(3) T. Sam (2010): Giảm mạnh tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với 1 quỹ tín dụng và 4 ngân hàng
(4) Tuệ Minh (2012), 5 tổ chức tín dụng được nới dự trữ bắt buộc, http://ebank.vnexpress.net/gl/ebank/thi-truong/2012/02/5-to-chuc-tin-dung-duoc-noi-du-tru-bat-buoc/
(5) http://www.lienvietpostbank.com.vn/khach-hang-ca-nhan/san-pham-tin-dung/content/cho-vay-nong-nghiep
(6) Lê Khương Ninh, Phạm Văn Dương (2011): Phân tích các yếu tố quyết định lượng vốn vay tín dụng chính thức của hộ nông dân ở An Giang, Tạp chí Công nghệ Ngân hàng số 60 (tháng 3-2011).
(7) Thomas Timberg, Le Duy Binh (2010): Promoting Sustainable, Market-based Microfinance: Viet Nam Case Study and Lessons Learned for APEC Economies, 2011/GFPN/WKSP/008, http://aimp.apec.org/Documents/2011/GFPN/WKSP1/11_gfpn_wksp1_008.pdf
(8) Tổng cục Thống kê, 2012
Đối thoại văn hóa với việc giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc  (12/06/2013)
Kết quả bỏ phiếu tín nhiệm minh bạch, công khai, khách quan, nhiều cử tri đồng tình  (11/06/2013)
Công bố kết quả lấy phiếu tín nhiệm 47 chức danh chủ chốt  (11/06/2013)
Hà Nội sẽ lấy phiếu tín nhiệm 18 chức danh  (11/06/2013)
Phản đối tem Trung Quốc vi phạm chủ quyền Hoàng Sa của Việt Nam  (11/06/2013)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm