Vấn đề nợ công của Ấn Độ và giải pháp
Vấn đề nợ công của Ấn Độ
Ấn Độ - nền kinh tế lớn đang lên ở châu Á đang đối mặt với tình trạng nợ công nặng nề. Trong khi cuộc khủng hoảng nợ khiến Mỹ bị hạ xếp hạng tín nhiệm và khủng hoảng nợ châu Âu vẫn đang tiếp tục tác động đến kinh tế toàn cầu, thì tình hình nợ ở cường quốc mới nổi Ấn Độ cũng có nhiều điều đáng lo ngại.
Cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu (năm 2008) đã buộc chính phủ nhiều nước phải chủ động can thiệp thông qua các gói kích cầu để vực dậy nền kinh tế. Ấn Độ cũng như vậy, gói kích cầu của Ấn Độ vào khoảng 36 tỷ USD (tương đương 3,5% GDP). Những gói kích cầu nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế đã làm tăng tỷ lệ nợ công trung bình thêm 5% ở các nước châu Á. Sự bất ổn của Khu vực đồng tiền chung châu Âu (Eurozone) khiến các nhà đầu tư nước ngoài rút một lượng lớn vốn ra khỏi các sàn chứng khoán Ấn Độ, chuyển sang giữ đồng USD, dẫn đến tỷ giá hối đoái của Ấn Độ bị biến động, đồng rupee (đồng tiền của Ấn Độ) giảm giá, xuống tới 57,4 rupee/USD và hiện ở mức xấp xỉ 55 rupee/USD, mất giá 18-20% so với đồng USD kể từ tháng 8-2011. Đồng rupee mất giá mạnh đã phần nào hạn chế tham vọng quốc tế của Ấn Độ, song Ấn Độ vẫn tăng chi tiêu cho quốc phòng thêm 17% lên tới 41,3 tỷ USD và được đánh giá là quốc gia đứng thứ 3 (sau Trung Quốc và Nhật Bản) về chi tiêu cho quốc phòng ở châu Á. Chi tiêu quốc phòng tăng cũng góp phần dẫn đến mức nợ công gia tăng.
Đồng rupee đột ngột mất giá gây căng thẳng cho dòng tiền mặt của doanh nghiệp và các ngân hàng do phải vật lộn với các khoản nợ bằng đồng USD và do đó, cơ hội tái cơ cấu nợ toàn diện của Ấn Độ suy giảm. Gánh nặng tài chính cũng gia tăng khi Ấn Độ tăng lương cho khu vực công và tăng mạnh chi tiêu cho các chương trình xã hội và trợ cấp. Năm 2009, Chính phủ Ấn Độ thực hiện cắt giảm thuế và trợ cấp xuất khẩu để kích thích tăng trưởng khiến nợ công tăng nhanh. Nợ công của Ấn Độ đã lên đến mức 80% GDP dẫn đến việc huy động vốn của cả khu vực công và tư qua thị trường trái phiếu trở nên khó khăn hơn và lãi suất trái phiếu buộc phải tăng.
Mức nợ trong nước của Chính phủ Ấn Độ đã lên đến 37.700 tỷ rupee (khoảng 829,4 tỷ USD) vào tháng 3-2012, tương đương với 77% GDP. Nợ doanh nghiệp khoảng 30.000 tỷ rupee (khoảng 660 tỷ USD), tương đương với 62% GDP. Theo Ngân hàng Dự trữ Ấn Độ (RBI), nợ nước ngoài của Ấn Độ ở mức 305,9 tỷ USD, tương đương 17,3% GDP - gần bằng dự trữ quốc gia 319 tỷ USD (tính đến tháng 7-2012). Năm 2011, nợ nước ngoài tăng 17,2% (khoảng 45 tỷ USD) do hoạt động thương mại, tín dụng mậu dịch ngắn hạn, vay mượn song phương, đa phương tăng mạnh. Hơn 60% nợ nước ngoài của Ấn Độ bằng USD. Chi phí nợ của Ấn Độ (gồm cả vốn và lãi) đã lên gần 85 tỷ USD trong quý II-2012. Trên thực tế, chính quyền các bang và Chính phủ Ấn Độ đang phải trả tiền lãi nợ vay nhiều hơn so với số tiền chi cho quân đội và một số dịch vụ công như giáo dục và y tế. Thâm hụt ngân sách của Ấn Độ cũng tăng mạnh lên tới 5,9% GDP (3-2012), cao hơn nhiều so với mục tiêu của Chính phủ là 4,6% GDP. Sự gia tăng này phát sinh từ việc lương thực tăng giá, chi phí trợ giá nhiên liệu gia tăng. Năm 2011, giá nhiên liệu tăng vọt do ảnh hưởng của giá dầu tăng cao. Giá xăng dầu ở Ấn Độ luôn cao hơn các quốc gia khác khoảng 60%. Nhiều loại thuế đánh vào xăng dầu cao tới 35%, biến Ấn Độ thành nơi “tốn kém nhất” để duy trì các hoạt động kinh tế - xã hội. Ngoài ra, Chính phủ cũng phải chi tiêu nhiều hơn cho các chương trình phúc lợi xã hội ở nông thôn.
Hiện Ấn Độ bị xếp hạng tín dụng quốc gia BBB - giống như Hy Lạp, và trở thành quốc gia đầu tiên trong nhóm các nền kinh tế mới nổi BRICS (gồm Brazil, Nga, Ấn Độ, Trung Quốc và Nam Phi) bị đánh tụt hạng BBB cho xếp hạng nợ dài hạn. Xếp hạng nợ công BBB của Ấn Độ đang trên mức không nên đầu tư.
Tổng nợ trong lĩnh vực hàng không Ấn Độ đang tăng cao do giá cả nhiên liệu leo thang. Nợ của ba hãng hàng không lớn của Ấn Độ (Air India, Kingfisher Airlines và Jet Airways) lên tới gần 12,31 tỷ USD vào thời điểm tháng 9-2012.
Tuy nhiên, phần lớn nợ công của Ấn Độ là nợ mang mệnh giá nội địa, với tỷ lệ 6:1 (nợ trong nước so với nợ nước ngoài). Ấn Độ chủ trương thay thế nợ nước ngoài bằng nợ trong nước, bởi: Thứ nhất, khi giữ tỷ giá cố định với đồng đôla Mỹ, việc đi vay nợ nước ngoài là một cách để hạn chế chi phí đi vay nhưng khi chuyển sang thả nổi tỷ giá, chính phủ có động lực lớn hơn khi vay nợ trong nước; Thứ hai, việc chuyển sang vay nợ trong nước cũng được thúc đẩy nhờ sự thành công kinh tế trong nước. Huy động nợ bằng đồng tiền quốc gia giúp vượt qua được những khó khăn khi huy động vốn tại thị trường nước ngoài chủ yếu bằng đồng USD. Do vậy, cơ cấu nợ của Ấn Độ tương đối hợp lý. Đa số nợ với thời hạn từ 5 - 10 năm. Nhờ vậy, Ấn Độ vẫn chưa phải chịu sức ép trả nợ trong những năm gần đây. Nợ công Ấn Độ chủ yếu do thể chế địa phương nắm giữ, chủ yếu là các ngân hàng thương mại và các công ty bảo hiểm. Kinh tế Ấn Độ vẫn có sự phục hồi đáng kể sau khủng hoảng tài chính toàn cầu nhờ hoạt động quản lý nợ công tốt của Chính phủ.
Ba kịch bản nợ công Ấn Độ được Bộ Tài chính Ấn Độ dự báo bao gồm: Kịch bản thứ nhất (trong bối cảnh thực hiện cải cách toàn diện với tốc độ tăng trưởng GDP là 7,7%). Tỷ lệ nợ công Ấn Độ sẽ giảm xuống chỉ còn 44,0% GDP giai đoạn 2020 - 2021, từ mức 75,9% GDP (năm 2010); Kịch bản thứ hai (trong bối cảnh không xây dựng được một nền tảng tài chính vững mạnh). Đây là kịch bản xấu nhất, theo kịch bản này, Ấn Độ không thể thực hiện cải cách tài khóa và do vậy thâm hụt vẫn giữ ở mức 3,8% GDP trong thời gian dài và tỷ lệ nợ công/GDP không cải thiện và vẫn giữ như mức hiện tại (khoảng 70 - 80% GDP); Kịch bản thứ ba (không có đột phá chính sách, nhưng nền tảng tài chính được xây dựng dần). Theo kịch bản này, Ấn Độ sẽ giảm dần thâm hụt ngân sách xuống còn 1,5% GDP và nợ công cũng giảm từ mức 75,9% GDP (2010) xuống còn 60,4% GDP (2020 -2021).
Giải pháp của Ấn Độ ứng phó nợ công
Mục tiêu chính sách quản lý nợ công của Ấn Độ nhằm đáp ứng các yêu cầu về tài chính của Chính phủ trung ương với mức vay thấp nhất trong dài hạn và duy trì tổng trị giá nợ ở giới hạn chấp nhận, trong khi vẫn thúc đẩy phát triển thị trường trái phiếu nội địa.
Để giải quyết áp lực nợ công ngày càng tăng, Chính phủ Ấn Độ cam kết cắt giảm 10% (5-2012) mức chi tiêu công nhằm tránh bị hạ mức tín nhiệm nợ công. Giảm thâm hụt ngân sách, đưa ra mục tiêu giảm thâm hụt ngân sách trung bình 0,6% mỗi năm trong giai đoạn 2012 - 2017 và thực hiện triển khai một số giải pháp cơ bản như sau:
Thứ nhất, tái cơ cấu nợ
Một số công ty điện lực Ấn Độ đang phải gánh chịu một khoản nợ ngày càng lớn do số tiền thua lỗ đã tăng gấp 15 lần trong vòng 3 năm qua (2009 - 2012), lên mức 288 tỷ rupee (tương đương 5,2 tỷ USD). Do đó, tái cơ cấu nợ là giải pháp duy nhất để cứu giúp ngành điện lực - ngành có ảnh hưởng lớn nhất đến sản xuất và tăng trưởng kinh tế Ấn Độ. Chính phủ đặt kế hoạch tái cơ cấu các khoản nợ có trị giá khoảng 35 tỷ USD của các công ty điện lực. Một nửa trong số các khoản vay ngắn hạn đến từ các công ty điện lực trực thuộc nhà nước - những công ty sản xuất, mua hoặc phân phối điện - sẽ được chuyển sang thành khoản vay của các chính quyền địa phương. Phần còn lại được gia hạn thêm 3 năm đối với thời gian trả số tiền gốc.
Thứ hai, cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước
Ấn Độ đã huy động được 3,5 tỷ USD (năm 2009) bằng cách bán lại từng phần nhiều doanh nghiệp quốc doanh. Mục đích của việc bán tài sản này là nhằm tăng ngân quỹ phục vụ cho các dự án đường xá, trường học và bệnh viện trong bối cảnh nợ công của Ấn Độ đã chồng chất. Việc bán cổ phần trong các doanh nghiệp quốc doanh sẽ là một công cụ quan trọng để giảm bớt những khó khăn trong bối cảnh khủng hoảng nợ công đang gia tăng. Thậm chí, để tăng ngân sách nhằm thúc đẩy các hoạt động chăm sóc y tế, giáo dục và nâng cấp cơ sở hạ tầng, Ấn Độ cần cổ phần hóa nhiều doanh nghiệp nhà nước, thay vì chỉ bán lại cổ phần nhỏ như cách làm hiện nay. Hiện Chính phủ Ấn Độ đang nắm quyền sở hữu 473 công ty, trị giá khoảng 500 tỷ USD, tương đương với 45% GDP của nền kinh tế Ấn Độ. Do đó, số cổ phần bán lại cho tới thời điểm này chưa thấm vào đâu so với tổng giá trị của các doanh nghiệp quốc doanh.
Thứ ba, hạ lãi suất và giảm tiền đặt cọc ngân hàng
Bộ Tài chính và Ngân hàng Trung ương Ấn Độ đã chuẩn bị các biện pháp tiền tệ và biện pháp tài chính cần thiết để bảo vệ Ấn Độ trước “cú sốc” Eurozone tan vỡ. Tháng 4-2012, Ngân hàng Trung ương Ấn Độ đã giảm lãi suất lần đầu tiên trong 3 năm để bơm tiền vào các doanh nghiệp. Tuy nhiên, do lạm phát đã lên tới 7,6% nên lãi suất không thể cắt giảm thêm nữa. Bên cạnh đó, Chính phủ Ấn Độ thực hiện giảm số tiền mà các ngân hàng phải “đặt cọc” tại Ngân hàng Trung ương. Tỷ lệ đặc cọc tại ngân hàng Trung ương là 4,75% (6-2012) và cho phép các cho các công ty vay tiền nhiều hơn.
Thứ tư, tăng cường thúc đẩy xuất khẩu
Tháng 2-2011, Bộ Thương mại và Công nghiệp Ấn Độ đề xuất “Chiến lược tăng gấp đôi xuất khẩu trong ba năm tới” nhằm tăng xuất khẩu hàng hóa lên 450 tỷ USD vào các năm 2013/2014. Để đạt mục tiêu này, Chính phủ chủ trương đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu và thị trường, đặc biệt hướng tới các nền kinh tế đang nổi lên. Cơ sở của chiến lược này là đẩy mạnh xuất khẩu hàng hóa có giá trị gia tăng cao mà trong nước có thế mạnh về sản xuất như hàng chế tạo, máy móc thiết bị, phương tiện giao thông và hóa chất. Về xuất khẩu, Chính phủ công bố chiến lược 7 điểm nhằm hỗ trợ chính sách ngoại thương, theo đó tiếp tục thúc đẩy xuất khẩu hàng hóa, đa dạng hóa thị trường, xác định các thị trường xuất khẩu trọng điểm nhằm đạt mục tiêu xuất khẩu 350 tỷ USD năm 2012 - 2013 và 500 tỷ USD năm 2013 - 2014. Tiếp tục đẩy mạnh quan hệ ngoại thương với các "đại gia" như Trung Quốc, Mỹ, Liên minh châu Âu (EU), Nhật Bản, Hàn Quốc và các nước láng giềng. Nâng kim ngạch thương mại với EU lên 237 tỷ USD và với các nước ASEAN lên 70 tỷ USD vào năm 2015.
Thứ năm, thỏa thuận hoán đổi tiền tệ song phương
Trong nỗ lực chống đỡ khủng hoảng nợ công, Chính phủ Ấn Độ đã cùng Nhật Bản ký kết thỏa thuận hoán đổi tiền tệ song phương (28-12-2011) với khối lượng trị giá 15 tỉ USD nhằm bảo đảm sự ổn định trên thị trường tài chính. Ấn Độ cam kết nới lỏng tài chính để Nhật Bản có thể đầu tư dễ dàng. Việc ký kết thỏa thuận mới này giúp Ấn Độ có thêm khả năng để đối phó với nguy cơ thiếu hụt ngoại tệ và hỗ trợ đồng rupee.
Thứ sáu, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và tiếp tục cải cách thể chế
Chính phủ Ấn Độ đề xuất kế hoạch thúc đẩy đầu tư vào lĩnh vực hạ tầng, trong đó xây dựng 4 sân bay quốc tế, phát triển đường bộ, xây dựng hải cảng... nhằm thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Trong năm tài khóa 2012 - 2013, Chính phủ Ấn Độ dự kiến sẽ đầu tư 35.000 crore rupee (1 crore trị giá khoảng 10 triệu VND) cho cầu cảng, so với 16.585 crore rupee của 2011 - 2012 và 8.798 crore rupee cho ngành hàng không; sửa đổi việc tăng hạn mức vốn FDI trong lĩnh bảo hiểm từ 26% lên 49%; cho phép các hãng hàng không nước ngoài đầu tư vào các hãng hàng không trong nước. Bên cạnh đó, Chính phủ Ấn Độ tiếp tục quá trình cải cách thể chế, như: sửa đổi Luật Ngân hàng 2011, Luật Bảo hiểm 2008, Luật Quản lý ngân sách và trách nhiệm tài chính, Luật về cơ quan phát triển và điều tiết quỹ hưu trí năm 2011, Luật Công ty mới (thay thế cho Bộ luật cũ về Công ty năm 1956). Các liên bang đã thông qua Dự luật mua sắm công năm 2012, Luật Tài chính năm 2012. Chính phủ Ấn Độ quyết định dừng đầu tư đối với các doanh nghiệp nhà nước hoạt động không hiệu quả và buộc các doanh nghiệp này phải cùng tham gia sân chơi bình đẳng với khu vực tư nhân trên cơ sở tôn trọng các điều kiện của thị trường.
Trong lĩnh vực hạ tầng, Ấn Độ tìm các “nút thắt cổ chai” và kiên quyết loại bỏ. Các "nút thắt cổ chai" bao gồm lĩnh vực cầu cảng, hàng không, năng lượng điện, sản xuất than và vận chuyển hàng hóa bằng đường sắt.
Tóm lại, năm 2012, cuộc khủng hoảng nợ công châu Âu đã làm giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế Ấn Độ, chỉ đạt 6,5%, mức thấp nhất trong thập kỷ qua. Song, mặc dù vậy, Ấn Độ vẫn cam kết đóng góp 10 tỷ USD cho Quỹ Tiền tệ quốc tế IMF (trong tổng số 75 tỉ USD của nhóm các nền kinh tế mới nổi BRICS) để giúp khu vực đồng tiền chung châu Âu giải quyết khủng hoảng nợ công. Số tiền này chỉ được sử dụng trong trường hợp cần thiết và vẫn là nguồn tiền dự trữ của Ấn Độ (hiện vào khoảng hơn 300 tỷ USD).
Kinh tế Ấn Độ đang trong cảnh khó khăn. Triển vọng kinh tế Ấn Độ sẽ phụ thuộc vào sự phục hồi của kinh tế thế giới, đặc biệt là khu vực đồng tiền chung châu Âu và vào năng lực của Chính phủ trong việc đạt được sự đồng thuận để triển khai các chính sách cần thiết. Song, trong khi chưa có công thức chung để giảm thiểu rủi ro của cuộc khủng hoảng nợ, chính sách tài khóa thận trọng và tăng cường quản lý nợ đã giúp Ấn Độ và nhiều quốc gia ứng phó hiệu quả với cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu./.
------------------------------------------------------
(1) BBB là mức xếp hạng nợ đầu tư thấp nhất.
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tiếp Phó Chủ tịch Quốc hội Lào  (13/03/2013)
Đồng chí Lê Hồng Anh thăm và làm việc tại Thanh Hóa  (13/03/2013)
Việt Nam đặc biệt coi trọng hợp tác thương mại với Hoa Kỳ  (13/03/2013)
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Tỉnh Quảng Trị tập trung lãnh đạo, chỉ đạo một số nhiệm vụ trọng tâm tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên