I. Khái quát chung

Tên nước: Cộng hòa Phi-líp-pin (The Republic of the Philippines)

Thủ đô: MANILA

Vị trí địa lý: Là quốc gia quần đảo ở Đông Nam Á với khoảng 7107 đảo, chạy dài từ Bắc xuống Nam giữa vĩ tuyến 4023 - 21025

Đặc điểm tự nhiên, khí hậu : Phi-lip-pin có bờ biển dài. 3/4 diện tích là rừng núi; đồng bằng thấp, nhỏ, hẹp, là khu vực có nhiều động đất và núi lửa với khoảng 10 núi lửa đang trong thời kỳ hoạt động. Khí hậu nhiệt đới gió mùa, thường có bão lớn, và có hai mùa rõ rệt là mùa khô và mùa mưa

Diện tích: 300.000 km2

Dân số: 89,4 triệu người (7/2006)

Dân tộc: Gồm 3 nhóm dân tộc chính là Indio theo Cơ đốc giáo, chiếm 3/4 dân số; Các dân tộc miền núi chiếm khoảng 5% và nhóm người Moro theo Hồi giáo, chiếm khoảng 5%. Ngoài ra số ngoại kiều (Hoa, Anh, Â'n, Mỹ, Tây Ban Nha, Arập...) chiếm 2%.

Tôn giáo: Thiên chúa giáo là quốc đạo (85% dân số), Hồi giáo 10%, 5% theo đạo Tin lành và các đạo khác

Ngôn ngữ: Tiếng Tagalog. Tiếng Anh được sử dụng rộng rãi và là ngôn

ngữ chính thức trong cơ quan và trường học

Tiền tệ: Đồng pê-sô (Peso)

Ngày Quốc khánh: 12-6-1898

Ngày độc lập: 4-7-1946

II. Các nhà lãnh đạo chủ chốt hiện nay

Tổng thống: Bà Gloria Macapagal Arroyo (Nhậm chức ngày 30-6-2004)

Phó Tổng thống: Ông Noli De Castro (Nhậm chức ngày 30-6-2004)

Chủ tịch Thượng viện: Ông Manuel B. (Nhậm chức ngày 24-7-2006)

Chủ tịch Hạ viện: Ông Jose (Nhậm chức ngày 27-7-2004)

Ngoại trưởng: Ông Alberto (Nhậm chức ngày 18-8-2004)

III. Thể chế chính trị

1. Thể chế nhà nước: Cộng hòa

+ Từ 1972 trở về trước: Theo Hiến pháp năm 1935, Quốc hội gồm Thượng viện và Hạ viện. Đứng đầu Nhà nước và Chính phủ là Tổng thống với nhiệm kỳ 4 năm, do dân trực tiếp bầu.

+ Từ 1981-1985: Theo Hiến pháp năm 1973, Quốc hội chỉ gồm một viện (bỏ Thượng viện). Đứng đầu Nhà nước là Tổng thống với nhiệm kỳ 6 năm, không được tái cử. Đứng đầu Chính phủ là Thủ tướng. Quyền lực tập trung vào Tổng thống.

+ Từ 1986 đến nay: Theo Hiến pháp năm 1987, Cơ quan lập pháp cao nhất là Quốc hội (Congress) gồm hai viện. Thượng viện gồm 24 thượng nghị sĩ (với nhiệm kỳ 6 năm) và Hạ viện gồm 200 đến 250 hạ nghị sỹ (với nhiệm kỳ 3 năm)

Tổng thống là người đứng đầu Nhà nước và Chính phủ. Tổng thống có các quyền: bổ nhiệm các bộ trưởng nội các với sự thông qua của Quốc hội; thành lập các Hội đồng...

Cơ chế bầu cử : Theo Hiến pháp năm 1987, dân trực tiếp bầu Tổng thống, Phó Tổng thống và các thượng và hạ nghị sỹ.

2. Các đảng phái chính trị chính

+ Liên minh cầm quyền hiện nay: Liên minh Lakas-NUCD-UMDP do Tổng thống Arroyo làm Chủ tịch và ông De venecia làm đồng chủ tịch. Hiện nay Liên minh này đổi tên là “Lakas ng Kristiyano at Muslim Democrata “ (Liên minh Sức mạnh quần chúng của những người dân chủ Thiên chúa giáo và Hồi giáo).

+ Các đảng chính trị:

- LDP : Phong trào đấu tranh vì nền dân chủ Phi-lip-pin

- LPC : Liên hiệp những người dân tộc chủ nghĩa

- PMP : Đảng Quần chúng Phi-lip-pin

- UNIDO : Đảng Dân tộc Dân chủ Thống nhất

- PDP-Laban : Đảng Dân chủ Phi-lip-pin-Sức mạnh quần chúng

- NUCD : Liên hiệp toàn quốc những người dân chủ Thiên chúa giáo

- GAD : Đại liên minh dân chủ

- PRP : Đảng Cải cách nhân dân

- KAMPI : Liên hiệp những người Phi-lip-pin tự do

- NP : Đảng Dân tộc chủ nghĩa

- LP : Đảng Tự do

- KBL : Phong trào vì xã hội mới

- LAMMP : Liên minh đa đảng gồm LDP, PMP, NPC thành lập 1998.

- PKP : Đảng Cộng sản thân Liên Xô, thành lập 1930.

- CPP : Đảng Cộng sản thân Trung Quốc, thành lập 1968.

- NDF : Mặt trận Dân tộc Dân chủ ( là lực lượng đấu tranh chính trị của CPP, được coi là hợp pháp và có trụ sở ở Hà Lan).

- LAKAS- NUCD : Đảng Sức mạnh quần chúng-Liên hiệp toàn quốc những người dân chủ Thiên chúa giáo.

- UMDP : Đảng Liên minh những người dân chủ Hồi giáo.

- PPC : Liên minh Sức mạnh nhân dân gồm các đảng LP, Reporma, Aksyon, Demokratiko, Lakas-NUCD, Promdi và NP

IV. Kinh tế

Phi-líp-pin được đánh giá là nước khá giầu tài nguyên cả trên đất liền cũng như dưới biển, có nhiều khoáng sản như vàng, đồng, sắt, crôm, măng-gan, than đá, dầu lửa và khí đốt. Năm 2004, Chính phủ ước tính trữ lượng khoáng sản nằm trong lòng đất có tổng giá trị khoảng từ 800 đến 1000 tỉ USD, trong đó quặng đồng khoảng 1,44 tỉ tấn, quặng vàng khoảng 795 triệu tấn, níc-ken 534 triệu tấn ( mới ở dạng tiềm năng). Tuy nhiên, hiện nay Phi-líp-pin mới chỉ xuất khẩu khoáng sản khoảng 0,5 tỉ USD/năm.

Phi-lip-pin chủ yếu vẫn là một nước nông nghiệp, GDP đầu người 1.068 USD (2005). Nông nghiệp chiếm 23% GDP với 70% dân số. Tuy nhiên, Phi-líp-pin hàng năm vẫn phải nhập lương thực (khoảng 2 triệu tấn gạo/năm, trong đó nhập từ Việt Nam 1,7 triệu tấn – 2005). Cây trồng chính là lúa, ngô, dừa, mía, chuối, dứa, cà phê, thuốc lá, bông, đay, các loại đậu và cây Abaca để lấy sợi. Trước đây, công nghiệp của Phi-líp-pin chủ yếu là khai khoáng, gỗ và chế biến thực phẩm. Một số ngành mới nổi lên là điện tử (chiếm trên 60% tổng xuất khẩu, đạt gấn 30 tỉ USD/năm) điện tử và may mặc xuất khẩu (mỗi ngành chiếm khoảng 5,5% xuất khẩu và đạt gần 2,5 tỉ USD/năm). Phi-lip-pin buôn bán chủ yếu với Mỹ, Nhật ( mỗi nước nhập khẩu từ Phi-líp-pin 17,6%), EU (19,8%), ASEAN (18,1%), Trung Quốc (8,9%), Hồng Kông (7,1%)... Nhập khẩu chính của Phi-líp-pin là: dầu mỏ, than đá, sắt thép, vật liệu xây dựng, thiết bị máy móc, lương thực, hoá chất ..... Đầu tư trực tiếp của nước ngoài vào Phi-líp-pin năm 2004: 688 triệu USD, 2005: 1,13 tỉ USD.

Dịch vụ ở Phi-líp-pin phát triển khá mạnh, chiếm trên 40% GDP. Xuất khẩu lao động rất quan trọng, với trên 5 triệu người lao động ở nước ngoài, mỗi năm ước tính gửi về nước khoảng 10 - 12 tỉ USD.

Từ thập kỷ 70, Phi-líp-pin thúc đẩy chiến lược "hướng vào xuất khẩu", và đã đạt một số kết quả tích cực. Đến năm 1996, tăng GDP đạt 7,1%, dự trữ ngoại tệ đạt 11,6 tỉ USD, FDI đạt 5,5 tỷ USD, thu nhập bình quân đầu người đạt 1090 USD. Từ 1998 đến 2000 do khủng hoảng tài chính-tiền tệ khu vực, kinh tế Phi-lip-pin suy giảm.

Từ 2004 trở lại đây, kinh tế Phi-líp-pin phát triển tương đối khá, đạt mức tăng trưởng 5 –5,5%/năm, GDP năm 2005 đạt 1.080 USD/người. Xuất khẩu tăng khá, đồng Pêsô tăng từ 57 Pêsô/1 USD lên khoảng 50 Pêsô/1 USD.

V. Đối ngoại

Từ năm 1992, Phi-líp-pin điều chỉnh chính sách đối ngoại với phương châm ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế; đẩy mạnh quan hệ với các nước láng giềng ở Châu Á - Thái Bình Dương.

Hiện nay, Philippin chủ trương chính sách đối ngoại theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá; coi trọng quan hệ với các nước lớn; thúc đẩy hoà bình, ổn định ở khu vực CA-TBD, phát triển quan hệ với ASEAN.

VI. Quan hệ với Việt Nam

1. Chính trị: Việt Nam và Phi-líp-pin thiết lập quan hệ ngoại giao ngày 12-7-1976. Hai bên đã trao đổi nhiều đoàn cấp cao.

Việt Nam có các đoàn thăm Phi-líp-pin của: Thủ tướng Phạm Văn Đồng (9-1978); Thủ tướng Võ Văn Kiệt (từ 26 đến 28-2-1992); Chủ tịch Quốc hội Nông Đức Mạnh (5-1993); Chủ tịch Lê Đức Anh (12-1995); Chủ tịch Trần Đức Lương (từ 14 đến 16-11-2001); Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An (từ 14 đến 17-12-2003). Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng dự Hội nghị AIPO lần thứ 27 tại Cebu, Phi-líp-pin ( từ 10 đến 15-9-2006). Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tham dự Hội nghị Cấp cao ASEAN 12 tại Cebu, Phi-líp-pin (từ 10 đến 15-1-2007).

Phi-líp-pin có các đoàn thăm Việt Nam của: Ngoại trưởng R.Manglapus (1988); Chủ tịch Hạ nghị viện Ramon Mitra (1991); Tổng thống Phi-líp-pin F. Ramos (1994); Tổng thống J. Estrada (1998); Chủ tịch Hạ viện Phi-líp-pin De Venecia (1999 và 2002); Tổng thống Arroyo (từ 6 đến 7-11-2002); Chủ tịch Thượng viện Drilon (4-2004). Tổng thống Arroyo dự Hội nghị cấp cao ASEM 5 tại Hà Nội từ 8 đến 9-10-2004 và Hội nghị Cấp cao APEC tại Hà Nội (từ 19 đến 23- 11-2006).

Quan hệ hai nước phát triển tốt. Trong chuyến thăm chính thức Việt Nam tháng 11-2002 của Tổng thống Arroyo, hai nước đã ký "Khuôn khổ hợp tác song phương trong 25 năm đầu thế kỷ 21 và thời kỳ tiếp theo".

Hai bên tiếp tục phối hợp triển khai Tuyên bố ứng xử ở Biển Đông (DOC) và thúc đẩy các bên liên quan thảo luận để sớm ký Quy tắc ứng xử Biển Đông (COC); phối hợp để ký Hiệp định ba bên (Trung Quốc – Phi-líp-pin – Việt Nam) về thỏa thuận thăm dò địa chấn trên biển trong Khu vực thoả thuận tại Biển Đông (ký ngày 14-3-2005), theo đó, ba nước đánh giá cao Thoả thuận, coi là mốc mới trong hợp tác ở Biển Đông. Ba nước đã hoàn thành giai đoạn một thăm dò địa chấn ở khu vực nêu trong Hiệp định ba bên và đang đánh giá kết quả để tính tới những bước hợp tác tiếp theo.

2. Kinh tế, đầu tư, thương mại, khoa học - kỹ thuật, văn hoá :

+ Tháng 3-1994, hai nước ký thoả thuận thành lập UBHH về hợp tác kinh tế, khoa học và kỹ thuật giữa 2 chính phủ và cho đến nay đã họp được 4 lần, phiên họp lần thứ 4 từ mồng 4 đến 8-11-2005. Hai bên dự kiến phấn đấu kim ngạch thương mại hai chiều đạt 2 tỉ USD vào năm 2007.

+ Kim ngạch hai chiều các năm gần đây: năm 2003 đạt trên 450 triệu, năm 2004 đạt 687 triệu USD, và năm 2005 đạt 1 tỉ 39 triệu USD trong đó Việt Nam xuất 829 triệu USD và nhập 210 triệu USD, năm 2006 đạt gần 1,2 tỉ đô la Mỹ, tăng 6% so với năm 2005. Gạo là mặt hàng chủ lực của ta xuất sang Phi-líp-pin trong nhiều năm qua. Năm 2005, Việt Nam đã xuất khẩu 1.700.000 tấn gạo cho Phi-líp-pin; Ngoài ra ta còn xuất sang Phi-lip-pin linh kiện điện tử và hàng nông sản. Ta nhập của Phi-líp-pin chủ yếu là phân bón, máy móc thiết bị phụ tùng, khoáng chất, khí hóa lỏng, xăng dầu, dược phẩm, vật liệu xây dựng...

+ Về đầu tư: Tính đến hết năm 2006, Phi-líp-pin có 25 dự án đầu tư còn hiệu lực với tổng vốn đăng ký 250 triệu USD (đứng thứ 4 trong ASEAN, sau Singapore, Thái Lan, Malaysia).

+ Về hợp tác khoa học công nghệ môi trường: Hai nước đã tiến hành 4 chuyến khảo sát hỗn hợp trên biển theo lộ trình Phi-líp-pin -Trường Sa -Vũng Tàu.

+ Về nông nghiệp và giáo dục: Philippin đang đào tạo cho ta một số chuyên gia nông nghiệp. Hiện có khoảng 60-70% diện tích trồng lúa ở Việt Nam đang áp dụng những tiến bộ kỹ thuật về canh tác lúa và các giống lúa mang nguồn gốc IRRI. IRRI đã tài trợ cho hơn 600 lượt cán bộ nghiên cứu Việt Nam.

3. Các văn kiện ký kết giữa Việt Nam và Phi-líp-pin:

- Hiệp định Hợp tác Kinh tế, Khoa học và Kỹ thuật (1-1978)

- Hiệp định Thương mại (1-1978); Hiệp định Vận chuyển Hàng không (11-1988)

- Nghị định bổ sung danh mục hàng hoá buôn bán (3-1990)

- Hiệp định Khuyến khích và Bảo hộ Đầu tư (2-1992)

- Hiệp định Vận tải Hàng hải (2-1992);

- Bản ghi nhớ về hợp tác liên doanh trong một số lĩnh vực của nông nghiệp (- 3-1992);

- Hiệp định thành lập Uỷ ban hỗn hợp về Thương mại và Kinh tế Việt Nam - Philipin (2-1992);

- Hiệp định Hợp tác Văn hoá (3-1994);

- Hiệp định Hợp tác Du lịch (3-1994);

- Thoả thuận lập Uỷ ban Hỗn hợp (3-1994);

- Nghị định thư về danh mục hàng hoá trao đổi giữa hai nước (3-1994);

- Bản nghi nhớ về các nguyên tắc hồi hương người Việt nam không phải tỵ nạn ở Philippin (5-2-1995);

- Nghị định thư về du lịch (7-1995);

- Bản ghi nhớ về việc ký lại Hiệp định Thương mại mới (11-1995);

- Tuyên bố chung về nguyên tắc 9 điểm giải quyết tranh chấp ở Biển Đông (11-1995);

- Kế hoạch Hành động về giáo dục nhằm thực hiện Hiệp định Văn hoá (11-1995);

- Hiệp định Hợp tác Khoa học Kỹ thuật (4-1996);

- MOU về nghiên cứu chung về biển (5-4-1996);

- Bản ghi nhớ về miễn thị thực cho người mang hộ chiếu ngoại giao (1-1997);

- Bản ghi nhớ về miễn thị thực cho người mang hộ chiếu công vụ và cấp thị thực nhanh cho người mang hộ chiếu phổ thông (12-1998);

- Hiệp định hợp tác giữa hai Chính phủ về phòng và chống các tội phạm hình sự (12-1998);

- Thoả thuận về hợp tác Nông nghiệp (10-1999);

- Hiệp định tránh đánh thuế trùng (11-2001);

- Khuôn khổ hợp tác song phương trong 25 năm đầu thế kỷ 21 và thời kỳ tiếp theo (11-2002) và Bản ghi nhớ về hợp tác thể dục thể thao (12-2002).

- Hiệp định ba bên Trung Quốc – Phi-líp-pin – Việt Nam về thỏa thuận thăm dò địa chấn trên biển trong Khu vực thoả thuận tại Biển Đông (ký ngày 14-3-05).

- Kế hoạch hợp tác du lịch giữa Việt Nam và Phi-líp-pin giai đoạn 2006 - 2008 (ký tháng 10-2006).