TCCS - Dân vận và công tác dân vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng nước ta; là điều kiện quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng và củng cố, tăng cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.

Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới đất nước, đòi hỏi phải không ngừng nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác dân vận của Đảng; phát huy quyền làm chủ của nhân dân, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhằm góp phần thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.

1 - Nhân dân là người sáng tạo ra mọi của cải vật chất và những giá trị tinh thần, là người làm nên lịch sử, là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội.

Nhân dân là lực lượng cơ bản và là động lực của mọi cuộc cách mạng. Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ khẳng định “Dân là gốc của nước”, của cách mạng, mà còn đặt nhân dân ở vị trí tối thượng: “Trong bầu trời không gì quý bằng nhân dân”; Dân là chủ: “quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân”; Người còn nói: Nhân dân có quyền lợi làm chủ thì phải có nghĩa vụ làm tròn bổn phận công dân. Quan niệm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về Dân rất rộng, người trong Đảng cũng như người ngoài Đảng đều có thể đồng tình, chấp thuận. Người đề nghị Đảng phải tập hợp, thu hút những phần tử ưu tú của công nhân, nông dân, trí thức,... thực hiện những nhiệm vụ cách mạng vẻ vang của Đảng, của dân tộc. Người nhấn mạnh: Đảng Cộng sản Việt Nam là một bộ phận ưu tú nhất của giai cấp công nhân, của dân tộc Việt Nam. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của Đảng cũng chính là vì sự nghiệp giải phóng dân tộc, đem lại ấm no, hạnh phúc cho nhân dân.

Gắn bó máu thịt với nhân dân là vấn đề thuộc bản chất cách mạng, bản chất công tác dân vận của Đảng, vì sự nghiệp cách mạng là của nhân dân và nhân dân cần Đảng dẫn đường, lãnh đạo. Trong lịch sử Đảng ta, mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân luôn luôn được củng cố và tăng cường. Đảng ta từ khi ra đời đến nay đã tỏ rõ là một Đảng cách mạng chân chính, hết lòng phấn đấu vì lợi ích của nhân dân. Cán bộ, đảng viên luôn luôn đi tiên phong trong các cuộc đấu tranh cách mạng của dân tộc. Nhân dân gắn bó với Đảng, theo Đảng làm cách mạng, dũng cảm chịu đựng mọi hy sinh gian khổ mất mát để bảo vệ Đảng, bảo vệ cách mạng. Đảng ta với số lượng lúc đầu rất ít đảng viên nhưng đã đoàn kết, tập hợp được đông đảo nhân dân đánh thắng những đế quốc to, giải phóng dân tộc, từng bước đưa cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Trong trái tim của người Việt Nam chỉ thừa nhận một đảng cầm quyền lãnh đạo, đó là Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng của Bác Hồ. Thật hiếm có một đảng nào trên thế giới được nhân dân tin yêu, mến mộ và gọi là “Đảng ta”.

Do gắn bó với dân, Đảng đã đi sâu tổng kết hoạt động thực tiễn sáng tạo của nhân dân, bổ sung, phát triển đường lối lãnh đạo của mình. Thực hiện phát triển kinh tế, bảo đảm công bằng xã hội trong điều kiện nền kinh tế thị trường, thì sáng kiến xóa đói, giảm nghèo đã xuất hiện ở nhiều địa phương, cơ sở. Đảng đã kịp thời tổng kết sáng kiến này và lãnh đạo đưa thành chương trình quốc gia, tạo thành cuộc vận động lớn trong toàn dân thực hiện xóa đói, giảm nghèo. Phương châm: “dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra” và xây dựng Quy chế Dân chủ ở cơ sở cũng đều là sáng kiến của dân.

Nhân dân không phải chỉ nêu sáng kiến, mà khi sáng kiến của mình trở thành đường lối của Đảng thì chính nhân dân lại là người thực hiện hăng hái, có hiệu quả. Đảng đã khẳng định: “Chính những ý kiến, nguyện vọng và sáng kiến của nhân dân là nguồn gốc hình thành đường lối đổi mới của Đảng. Cũng do nhân dân hưởng ứng đường lối đổi mới, dũng cảm phấn đấu, vượt qua biết bao khó khăn, thử thách mà công cuộc đổi mới đạt được những thành tựu hôm nay”(1). Qua 25 năm thực hiện công cuộc đổi mới, chúng ta đã giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử trong phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm an ninh quốc phòng, giữ vững ổn định chính trị, hội nhập quốc tế và không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

2 - Mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân là mối quan hệ hai chiều, gắn bó, tương hỗ như một lẽ tự nhiên.

Nhân dân cần có Đảng lãnh đạo để làm cách mạng giải phóng cho mình thoát khỏi mọi áp bức, bóc lột, xây dựng đời sống ấm no, hạnh phúc. Đảng cần có dân để có sức mạnh vững chắc về tinh thần, trí tuệ. Có dân là có tất cả. Mất dân cũng có nghĩa là mất tất cả. Bài học đau xót về sự sụp đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu, khi chính nhân dân các nước này đã không đứng ra bảo vệ Đảng Cộng sản và chính quyền. Tình hình Trung Đông và các nước Bắc Phi hiện nay, nhân dân vùng lên phản đối chính quyền, đòi thay đổi tổng thống và bộ máy chính quyền nhà nước đang diễn ra hết sức phức tạp, khôn lường. Hơn nữa, vấn đề nợ công ở một số nước trong Liên minh châu Âu (EU) cũng diễn biến hết sức căng thẳng.

Ở nước ta, có những nơi, những lúc lòng tin của dân đối với Đảng, Nhà nước ít nhiều có giảm sút do một số cán bộ, đảng viên hư hỏng, thoái hóa, biến chất đã không thực hiện đúng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước làm cho đời sống của nhân dân gặp nhiều khó khăn. Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng nhấn mạnh: “Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng với sự phân hóa giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước”(2). Đây là những cảnh báo đối với chúng ta về nguy cơ xa dân, mất chỗ dựa ở dân và đòi hỏi suy nghĩ về việc phải làm thế nào để nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân vận? Phải làm sao cho mỗi cán bộ, đảng viên thật sự gần dân, tin dân, trọng dân, học dân và có trách nhiệm với dân. 

3 - Khi đã trở thành đảng cầm quyền, mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân trước hết và chủ yếu thể hiện ở mối quan hệ giữa chính quyền với nhân dân.

Trước đây, khi chưa có chính quyền, Đảng phải thông qua cán bộ, đảng viên, thông qua Mặt trận và các đoàn thể để thiết lập mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân. Cán bộ, đảng viên sống trong lòng dân, được dân bảo vệ, lãnh đạo nhân dân làm cách mạng giành chính quyền. Mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân trở thành mối quan hệ tự nhiên, hết sức gần gũi. Ngày nay Đảng ta đã trở thành một đảng cầm quyền và lãnh đạo chính quyền quản lý toàn bộ xã hội. Phần đông cán bộ, công chức nhà nước là đảng viên. Do đó, mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân chủ yếu thể hiện ở mối quan hệ giữa chính quyền với nhân dân thông qua pháp luật, chính sách, thông qua hoạt động của cán bộ, công chức nhà nước.

Đảng luôn luôn chăm lo xây dựng và củng cố chính quyền, đề phòng xu hướng lạm dụng quyền lực của bộ máy nhà nước. Trong bài báo Dân vận (ngày 15-10-1949), khi đề cập vấn đề ai phụ trách dân vận, Chủ tịch Hồ Chí Minh đặt lên hàng đầu: “Tất cả cán bộ chính quyền, tất cả cán bộ đoàn thể và tất cả hội viên của các tổ chức nhân dân... đều phải phụ trách dân vận”. Thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng ta đã có nhiều nghị quyết về xây dựng chính quyền của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Chỉ thị số 18/2000/CT-TTg về Tăng cường công tác dân vận, nhằm nâng cao trách nhiệm của các cấp chính quyền và cán bộ công chức đối với công tác dân vận, thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an ninh quốc phòng, tạo điều kiện bảo đảm ổn định chính trị - xã hội, làm cho đất nước phát triển bền vững. Tuy nhiên, sự chuyển biến tiến bộ còn chậm, chưa đáp ứng được đòi hỏi của tình hình và yêu cầu nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Một số cán bộ chính quyền vẫn còn quan niệm: Công tác dân vận là công tác của cán bộ đảng, Mặt trận, đoàn thể; còn cán bộ chính quyền làm công việc công quyền, công việc hành chính, quản lý xã hội bằng pháp luật, không làm công tác vận động quần chúng. Quan niệm như vậy chưa đúng, chưa đầy đủ và rất sai lầm. Cán bộ chính quyền chỉ làm công tác hành chính mà không hiểu công tác dân vận, không thực sự làm dân vận thì chưa thể là những cán bộ, công chức cách mạng, công bộc của dân.

Bệnh quan liêu trong bộ máy chính quyền của chúng ta còn rất nặng, V.I. Lê-nin đã từng cảnh báo: cái làm cho chúng ta thất bại, chính là bệnh quan liêu. Bác Hồ cũng đã nói: bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân, của bộ đội và của Chính phủ. Bệnh quan liêu cộng với tình trạng tham nhũng là kẻ thù rất nguy hiểm gây bức xúc, bất bình trong nhân dân. Sự bất cập trong công tác quản lý và sự thoái hóa, biến chất của một số cán bộ, công chức nhà nước, đang ảnh hưởng đến uy tín của Đảng, Nhà nước và mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, đang là một nguy cơ lớn đối với sự sống còn của Đảng, của chế độ.

Chúng ta cần nhận thức sâu sắc rằng, dân vận thời kỳ hiện nay không thể dừng lại ở những lời kêu gọi chung chung hoặc chạm ở vòng ngoài cuộc sống. Dân vận phải đi thẳng vào cuộc sống của nhân dân để vận động. Phải gần dân, sát dân, nắm dân, hiểu dân. Nói đến cuộc sống không thể không nói đến mối quan hệ của nhân dân đối với các chủ trương, chính sách của Nhà nước. Người làm chính sách cũng như những người đưa chính sách đến với nhân dân nếu không quán triệt quan điểm dân vận sâu sắc thì dễ mắc sai lầm, rất có hại. Cán bộ Mặt trận, đoàn thể cũng phải quán triệt chủ trương, chính sách để vận động nhân dân. Người xây dựng chủ trương, chính sách cũng như tổ chức thực hiện chủ trương, chính sách đều có vai trò quan trọng. Với ý nghĩa đó, không thể coi nhẹ công tác dân vận của chính quyền.

Chính sách đúng đắn của Đảng và Nhà nước là phương hướng dân vận hàng đầu và sự công minh, liêm chính, minh bạch của các cấp chính quyền là thế mạnh của dân vận trong thời kỳ mới. Nhà nước còn phải tăng cường giáo dục, bồi dưỡng cho cán bộ, công chức phong cách “trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân”, “Nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin”, coi đó là yêu cầu, đòi hỏi bắt buộc đối với cán bộ công chức nhà nước trong thực hiện chức trách, nhiệm vụ phục vụ nhân dân.

4 - Mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân còn được thể hiện ở mối quan hệ giữa
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể với nhân dân.

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể ở nước ta đóng vai trò đại diện cho lợi ích chung và lợi ích của các giai tầng; đồng thời, là cầu nối giữa Đảng, chính quyền với nhân dân. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Những đoàn thể ấy là tổ chức của dân, phấn đấu cho dân, bênh vực quyền của dân, liên lạc mật thiết nhân dân với Chính phủ”(3). Như vậy, tính chất của đoàn thể là tổ chức của nhân dân, Đảng giúp nhân dân tổ chức ra đoàn thể; Đảng lãnh đạo đoàn thể không thể theo kiểu bao biện, làm thay mà phải tôn trọng tôn chỉ mục đích và điều lệ của đoàn thể. Đảng tôn trọng Mặt trận và các đoàn thể cũng chính là tôn trọng nhân dân. Chức năng của đoàn thể là phấn đấu cho nhân dân, bênh vực quyền lợi chính đáng và hợp pháp của nhân dân; liên lạc mật thiết giữa nhân dân với các cơ quan nhà nước.

Những năm gần đây, nhờ thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Trung ương 7 khóa IX “Về phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”, “Về công tác dân tộc”, “Về công tác tôn giáo”; Nghị quyết Đại hội X và Đại hội XI của Đảng, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể đã vượt ra khỏi tình trạng trì trệ, có những tiến bộ rõ về đổi mới nội dung, phương thức hoạt động, tập hợp được quần chúng, đoàn viên, hội viên. Nhiều tổ chức quần chúng mới ra đời. Cùng với các đoàn thể nhân dân có thêm nhiều hội nghề nghiệp, văn hóa, từ thiện nhân đạo, hữu nghị… Nhiều cuộc vận động và phong trào nhân dân do Mặt trận Tổ quốc và một số đoàn thể khởi xướng và chỉ đạo đã có ý nghĩa to lớn như xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư” (nay là phong trào “Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa”), phong trào sản xuất, kinh doanh giỏi, xây dựng xã hội học tập đang có sức hấp dẫn thu hút nhân dân tham gia.

Tuy nhiên, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chưa khắc phục được tình trạng một số hoạt động còn “hành chính hóa”; phương thức công tác còn nhiều lúng túng, hiệu quả chưa cao, chưa thật sự sâu sát với quần chúng, chưa hiểu rõ tâm tư, nguyện vọng của quần chúng; còn có tình trạng ở một số không ít cơ sở, khi xảy ra vấn đề phức tạp, đoàn thể không nắm được tình hình, không phát huy được vai trò của đoàn viên, hội viên. Yêu cầu tăng cường thực sự vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân hiện nay đang được đặt ra trong quá trình nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác dân vận của Đảng.

5 - Quan tâm chăm lo đến lợi ích thiết thực của nhân dân làm cho mối  quan hệ giữa Đảng và nhân dân ngày càng gắn bó, phong trào quần chúng phát triển, hệ thống chính trị không ngừng được củng cố, vững mạnh.

Trong điều kiện đảng cầm quyền, lãnh đạo chính quyền quản lý kinh tế, quản lý xã hội, điều quan trọng nhất là các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước phải đáp ứng lợi ích thiết thân của nhân dân, phù hợp với yêu cầu, nguyện vọng của nhân dân, trong sự hài hoà các lợi ích cá nhân, tập thể và xã hội, thống nhất giữa quyền lợi và nghĩa vụ công dân. Những chủ trương, chính sách trong giai đoạn hiện nay nhằm phát triển sản xuất, bảo đảm an sinh xã hội, kiềm chế lạm phát, ổn định đời sống nhân dân, chính là góp phần củng cố và tăng cường mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.

Trong công tác dân vận, chúng ta cần rút ra bài học phải quan tâm đến những lợi ích thiết thực của nhân dân. Nhiều khi Đảng và Nhà nước làm rất nhiều việc chăm lo đến những lợi ích cơ bản của nhân dân, nhưng ở một số nơi lại không chú ý đến những việc nhỏ liên quan đến những lợi ích thiết thực của nhân dân. Các thế lực phản động đã lợi dụng khai thác thiếu sót này để xuyên tạc. Cho nên, chúng ta phải gần dân, sát cơ sở để nắm được tâm tư, nguyện vọng của nhân dân. Cơ sở là khâu trọng yếu trong toàn bộ hệ thống chính trị, nơi thực hiện mọi đường lối, chủ trương, chính sách pháp luật; nơi trực tiếp và thường xuyên diễn ra mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Song, cơ sở cũng đang là nơi còn nhiều yếu kém. Uy tín của một số cán bộ, đảng viên ở cơ sở trước nhân dân bị giảm sút, ít có khả năng thuyết phục nhân dân. Đội ngũ cán bộ cơ sở đang còn nhiều bất cập về năng lực và trình độ quản lý xã hội, quản lý kinh tế, quản lý hành chính. Đa số anh chị em có tinh thần hăng hái làm việc nhưng chưa được huấn luyện, đào tạo chu đáo. Cộng đồng dân cư ở cơ sở lại rất đa dạng, tình trạng vi phạm dân chủ cũng như thiếu kỷ cương, phép nước, vi phạm pháp luật ở cơ sở còn nhiều, có nơi nghiêm trọng làm ảnh hưởng lớn tới việc tổ chức, động viên nhân dân thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách và pháp luật của Nhà nước.

Mối quan hệ giữa Đảng và nhân dân ở cơ sở được biểu hiện cụ thể ở hoạt động của cấp ủy, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể và cán bộ, đảng viên ở cơ sở đối với nhân dân. Đã từ lâu, chúng ta nói tăng cường cho cơ sở, nhưng thực tế chưa làm được bao nhiêu trong khi các nhiệm vụ chính trị, kinh tế, xã hội, an ninh và quốc phòng ở cơ sở ngày càng phức tạp, nặng nề hơn. Vì vậy, chủ trương hướng về cơ sở phải trở thành hành động thiết thực của tất cả các cấp, các ngành, bên cạnh đó tiếp tục xây dựng, củng cố, tăng cường và phát huy vai trò của hệ thống chính trị ở cơ sở, trước hết là ở xã, phường, thị trấn.

6 - Phải dựa vào dân để xây dựng Đảng ta thật sự trong sạch, vững mạnh.

Thông qua phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân, Đảng kiểm nghiệm, hoàn chỉnh và cụ thể hóa đường lối chính trị. Cũng từ phong trào nhân dân, Đảng lựa chọn những người ưu tú để kết nạp vào hàng ngũ của Đảng, đồng thời cũng thông qua phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân để giáo dục và nâng cao chất lượng hoạt động của cán bộ, đảng viên. Chúng ta cần có kế hoạch thật tốt để nhân dân tham gia xây dựng đảng, loại bỏ những phần tử thoái hóa, biến chất ra khỏi tổ chức đảng. Gắn xây dựng Đảng với sự kiểm tra, giám sát của quần chúng, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng. Thực hiện dân chủ hóa trong sinh hoạt đảng và tranh thủ ý kiến của nhân dân trong công tác cán bộ, kiện toàn cấp ủy, xây dựng các tổ chức cơ sở đảng, xác lập sự lãnh đạo của Đảng ở từng địa bàn, từng cơ sở, từng cộng đồng dân cư.

7 - Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác dân vận để phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng - vấn đề mấu chốt để tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.

Lịch sử chứng minh rằng, các cuộc chiến tranh giải phóng dân tộc của nhân dân ta phần lớn đều đi đến thắng lợi nhờ lòng yêu nước và sự đoàn kết của toàn dân tộc. Kế thừa và phát huy truyền thống đó, ngay từ ngày đầu thành lập, Đảng ta đã luôn luôn coi trọng củng cố và phát huy khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phát huy sức mạnh truyền thống, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Nhờ đó, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân ta giành được những thắng lợi vĩ đại trong sự nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Bác Hồ là người tiêu biểu cho tư tưởng đại đoàn kết đó. Lời dạy của Người chính là bài học lớn của cách mạng Việt Nam, luôn luôn soi sáng cho mọi tư tưởng và hành động của chúng ta.

“Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết,

Thành công, thành công, đại thành công”.

Đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế để phát triển bền vững đất nước và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa, chúng ta phải phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, coi đó là đường lối chiến lược cơ bản, lâu dài. Đại đoàn kết là sự thống nhất các lực lượng của dân tộc đi con đường mà Đảng và Bác Hồ đã chọn: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Tư tưởng đại đoàn kết toàn dân tộc, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “vận động tất cả lực lượng của mỗi một người dân không để sót một người dân nào, góp thành lực lượng toàn dân”(4). Như vậy, phải thực hiện đại đoàn kết các giai cấp, các tầng lớp, dân tộc, tôn giáo, thành phần; mọi giới, mọi lứa tuổi, mọi vùng của đất nước, người trong Đảng và người ngoài Đảng, mọi thành viên trong đại gia đình dân tộc Việt Nam dù sống ở trong nước hay định cư ở nước ngoài. Phải động viên tất cả lực lượng vật chất, lực lượng tinh thần, trí tuệ. Phát huy sức mạnh của cả cộng đồng dân tộc, truyền thống yêu nước và lòng tự hào dân tộc; lấy mục tiêu giữ vững độc lập, thống nhất vì “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” làm điểm tương đồng; chấp nhận những điểm khác nhau không trái với lợi ích chung của dân tộc; xóa bỏ mặc cảm, định kiến, kỳ thị về quá khứ, giai cấp, thành phần; xây dựng tinh thần cởi mở, tin cậy lẫn nhau, hướng tới tương lai.

Công tác dân vận của cả hệ thống chính trị được tăng cường, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động; khối đại đoàn kết toàn dân tộc luôn luôn được củng cố và phát triển sâu rộng trong toàn xã hội, chính là nguồn gốc và sức mạnh của mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân trong thời kỳ mới./.

----------------------------------------

(1) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 460

(2) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 173

(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 6, tr. 66

(4)  Hồ Chí Minh: Sđd, t. 5, tr. 698