Đường Hồ Chí Minh trên biển - một sáng tạo độc đáo của chiến tranh nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước
21:06, ngày 08-10-2011
TCCSĐT - Trong lịch sử chiến
tranh giữ nước, ông cha ta đã từng mở nhiều con đường để nối liền hậu
phương với tiền tuyến. Đầu thế kỷ X, Lê Hoàn đã đào con kênh dài hàng
trăm ki-lô-mét từ Thanh Hóa vào Nghệ An để hành quân và vận chuyển
lương thực vào phục vụ chiến đấu bảo vệ vùng biên giới phía Nam đất
nước. Đến thế kỷ XVIII, Nguyễn Huệ - Quang Trung đã khai thông con
đường thượng đạo miền Tây để thực hiện cuộc hành quân thần tốc ra Bắc,
đánh tan 29 vạn quân Thanh ở Kinh thành Thăng Long. Trong thời kỳ chiến
tranh cách mạng, Đảng ta đã hình thành những "con đường liên lạc bí
mật" từ Trung ương, Xứ ủy đến các cơ sở cách mạng ở địa phương. Đến
cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược, dưới sự lãnh đạo của
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta đã
vượt bao khó khăn, thử thách, phá núi, bạt rừng xây dựng nên con đường
vận chuyển từ hậu phương lên Điện Biên Phủ... Nhưng có lẽ, chưa có con
đường nào có sức mạnh thần kỳ, tầm vóc to lớn và đầy tính huyền thoại
như đường Hồ Chí Minh trên bộ và trên biển.
Trong cuộc chiến tranh xâm lược Việt Nam, nắm rõ vai trò to lớn của hậu phương lớn miền Bắc đối với tiền tuyến lớn miền Nam, đế quốc Mỹ và chính quyền Sài Gòn đã không từ một thủ đoạn thâm độc, xảo quyệt nào, sử dụng tất cả các loại vũ khí và phương tiện chiến tranh hiện đại, với sức mạnh tổng hợp của cả hải, lục và không quân, lực lượng biệt kích, chiến tranh điện tử, chiến tranh hóa học… để thực hiện "chiến tranh ngăn chặn" nhằm cắt đứt sự chi viện từ hậu phương miền Bắc cho các chiến trường miền Nam.
Ở trên bộ, với lực lượng không quân hùng mạnh, kẻ thù đã sử dụng đủ loại máy bay, từ máy bay không người lái, máy bay phản lực, máy bay ném bom, kể cả máy bay ném bom chiến lược B.52, tiến hành ném bom rải thảm, đánh phá, ngăn chặn phương tiện vận tải, phá hỏng cầu, cống, ngầm, đèo, đường dây thông tin, giao liên v.v.. của ta. Ngoài ra, Mỹ còn sử dụng các loại vũ khí, trang bị điện tử như bom từ trường, bom la-de, "cây nhiệt đới" để phát hiện người và mục tiêu trên mặt đất, thả chất độc hóa học hủy diệt các thảm cây xanh, các cánh rừng để phát hiện kho tàng, bến bãi nhằm tiêu diệt sinh lực, phương tiện chiến đấu và cắt đứt tuyến chi viện của ta.
Ở trên biển, ngay từ đầu cuộc chiến tranh, đế quốc Mỹ và quân đội Sài Gòn cũng đã thiết lập 3 hệ thống tuần tiễu để "chống xâm nhập". Một hệ thống cách bờ 12 hải lý được gọi là hệ thống cận duyên; một hệ thống từ 12 hải lý trở ra đến 40 hải lý, được gọi là hệ thống viễn duyên. Trên cả hai hệ thống này, Mỹ và quân đội Sài Gòn sử dụng hàng trăm tàu chiến lớn nhỏ, ngày đêm thay nhau tuần tiễu, lùng sục vào các ngư trường nhằm phát hiện tàu lạ. Ngoài hai hệ thống trên, địch còn sử dụng hệ thống không tuần, cho các máy bay tuần tra ngoài khơi 200 hải lý để phát hiện tàu xâm nhập. Ở những hòn đảo, vùng cửa sông, cửa biển được coi là nhạy cảm và có tính chiến lược như: cù lao Ré, đảo Hòn Khoai, Côn Sơn, cửa Bồ Đề, Gành Hào hay cửa sông Ông Đốc… địch thiết lập những căn cứ hỏa lực mạnh, những hạm đoàn lớn để không chỉ kiểm soát vùng cận duyên mà còn mở rộng tầm kiểm soát ra khu vực hải phận quốc tế.
Phải đương đầu với một kẻ thù hung bạo có tiềm lực và sức mạnh quân sự, kinh tế, trình độ khoa học, công nghệ hiện đại hơn gấp nhiều lần, ngay từ sau khi có Nghị quyết Trung ương 15, Đảng ta đã chủ trương chuyển hướng chiến lược của cách mạng miền Nam từ đấu tranh chính trị sang đấu tranh vũ trang; kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị chống đế quốc Mỹ xâm lược và tay sai. Cũng từ đó, nhu cầu chi viện cho các chiến trường miền Nam ngày càng lớn. Theo sự chỉ đạo của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, ngày 19-5-1959, Đoàn 559 được thành lập, có nhiệm vụ mở đường vận chuyển hàng hóa, tổ chức đưa đón bộ đội, cán bộ từ Bắc vào Nam và từ Nam ra Bắc. Tiếp đó, để tăng cường hơn nữa công tác chi viện cho đồng bào, chiến sĩ miền Nam ở chiến trường Nam Trung Bộ và Nam Bộ đang trực tiếp đánh Mỹ, tháng 7-1959, Bộ Tổng tư lệnh quyết định thành lập Tiểu đoàn vận tải thủy 603. Để giữ bí mật, đơn vị hoạt động dưới tên gọi "Tập đoàn đánh cá Sông Gianh", đóng quân tại thôn Thanh Khê, xã Thạch Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
Những ngày đầu hoạt động trong điều kiện vô cùng khó khăn, ác liệt, đặc biệt là còn thiếu kinh nghiệm và hiểu biết về tình hình cụ thể tại các tỉnh duyên hải phía Nam. Chuyến vượt biển đầu tiên bằng thuyền buồm của Tiểu đoàn 603 không thành công do thuyền gặp gió mùa, sóng lớn, bị trôi dạt và không về được tới đích, cả 6 thuyền viên đều bị địch bắt, Tiểu đoàn 603 tạm ngừng hoạt động để tìm giải pháp và phương thức vận chuyển phù hợp.
Ở miền Nam, trong thời gian này, dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, các tỉnh ven biển như Bến Tre, Cà Mau, Trà Vinh, Bà Rịa cũng đã tổ chức nghiên cứu, chuẩn bị lực lượng, phương tiện để ra Bắc tiếp nhận vũ khí. Đầu năm 1961, các tỉnh trên đã dùng 5 thuyền gỗ đánh cá, bí mật ra Bắc. Trong đó, tỉnh Bến Tre có 2 thuyền; Bạc Liêu có 2 thuyền; Trà Vinh có 1 thuyền. Riêng tỉnh Bà Rịa có một thuyền đang trên đường ra Bắc thì bị địch bắt. Qua tổng kết kinh nghiệm hoạt động của Tiểu đoàn 603 và chuyến vượt biển ra Bắc của các thuyền ở 4 tỉnh Nam Bộ, ngày 23-10-1961, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Đoàn Vận tải biển 759, đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Quốc phòng(1). Sau khi thành lập, Đoàn 759 bắt tay ngay vào xây dựng kế hoạch vận chuyển, trong đó nhấn mạnh đến phương thức vận chuyển, phương pháp tiến hành và hướng đột phá. Về phương tiện vận chuyển, đề án chỉ rõ, trước mắt tận dụng những phương tiện thô sơ, nửa hiện đại. Sau đó tổ chức nghiên cứu để có các đội tàu tương đối hiện đại, trọng tải lớn, có thể hoạt động quanh năm, không phụ thuộc vào thời tiết, gió bão; khi có thời cơ, sẽ sử dụng những đội tàu có sức chở 200 đến 500 tấn/chiếc; về phương châm vận chuyển, kết hợp hoạt động hợp pháp và bất hợp pháp; lấy hoạt động hợp pháp làm phương thức chủ yếu. Trong quá trình vận chuyển, đơn vị phải chủ động, táo bạo, bất ngờ, lợi dụng sơ hở của địch để đưa hàng đến bến; đồng thời phải có các phương án linh hoạt để đối phó khi bị phát hiện. Trong trường hợp bị địch phát hiện, phải kiên quyết chiến đấu bảo vệ hàng; nếu cần thì nổ tàu để giữ bí mật. Về hướng đột phá, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng quyết định hướng đột phá của Đoàn sẽ là Nam Bộ, sau đó sẽ phát triển ra Khu 5.
Sau một thời gian xây dựng, ổn định tổ chức biên chế, chuẩn bị tàu thuyền và đi trinh sát thực địa, trung tuần tháng 8-1962, Quân ủy Trung ương quyết định mở đợt vận chuyển vũ khí vào Nam. Từ đây, Đoàn 759 bước vào giai đoạn thực hiện vận chuyển để làm nên con đường huyền thoại trên Biển Đông - đường Hồ Chí Minh trên biển (2). Sự ra đời của Đoàn 759 cùng với việc khai thông tuyến chi viện chiến lược Bắc - Nam trên biển là sự kiện hết sức có ý nghĩa. Từ đây, các địa phương ven biển miền Nam, chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2) đã nhận được sự chi viện trực tiếp của miền Bắc, tạo nên sức mạnh và niềm tin to lớn cho các lực lượng vũ trang trên chiến trường miền Nam.
Với tinh thần thần tốc, táo bạo, tất cả vì miền Nam ruột thịt, đêm 11-10-1962 chiếc tàu gỗ gắn máy đầu tiên của Đoàn 759 do đồng chí Lê Văn Một - Thuyền trưởng và đồng chí Bông Văn Dĩa - Bí thư chi bộ chở hơn 30 tấn vũ khí đầu tiên bí mật rời bến Nghiêng (Hải Phòng). Sau 9 ngày vượt biển, con tàu cập bến Vàm Lũng (Cà Mau) an toàn đánh dấu một sự kiện quan trọng "đường Hồ Chí Minh trên biển" đã được khai thông. Nhận được tin đó, Bác Hồ kính yêu đã gửi điện động viên, khen ngợi cán bộ, chiến sĩ và căn dặn cần rút kinh nghiệm chuyến đi, tiếp tục vận chuyển nhanh hơn nữa, nhiều hơn nữa vũ khí cho đồng bào miền Nam đánh giặc, cho Nam - Bắc sớm sum họp một nhà. Với tinh thần khẩn trương, quay vòng, tăng chuyến, trong năm 1963, Đoàn 759 đã thực hiện được 23 chuyến, vận chuyển được hơn 1.318,68 tấn hàng hóa, chủ yếu là vũ khí và thuốc men vào các tỉnh Cà Mau, Bến Tre, Trà Vinh, Bà Rịa. Ngoài ra, Đoàn còn đưa đón hàng chục cán bộ cao cấp của Đảng, quân đội và chuyên gia quân sự vào miền Nam và từ miền Nam ra miền Bắc báo cáo với Trung ương và nhận chỉ thị mới, kịp thời bổ sung cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy chiến đấu trên chiến trường miền Nam, góp phần quan trọng làm thất bại chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ và tay sai, mở rộng vùng giải phóng, tạo thế và lực mới cho cách mạng miền Nam.
Trước sự phát triển nhanh chóng và hoạt động vận chuyển có hiệu quả của Đoàn 759, để tăng cường hơn nữa khả năng hoàn thành nhiệm vụ, bảo đảm nhu cầu chi viện ngày càng lớn cho chiến trường, đồng thời nhất quán với nguyên tắc vận tải thủy là gọn nhẹ, chặt chẽ và hết sức tiết kiệm, tháng 9-1963, Quân ủy Trung ương quyết định giao nhiệm vụ vận chuyển bằng đường biển cho Quân chủng Hải quân. Đến ngày 24-1-1964, Đoàn 759 được điều chỉnh tổ chức, phát triển thành Đoàn 125 Hải quân. Trong thời gian này, xuất phát từ yêu cầu của các chiến trường, Đoàn 125 tập trung đưa hàng vào Khu 9, Khu 8, Khu 7 và Khu Sài Gòn - Gia Định, đồng thời xúc tiến việc mở bến mới chi viện cho chiến trường Khu 5, Khu 6. Kết quả, trong năm 1964, Đoàn 125 tổ chức vận chuyển được 52 chuyến vào chiến trường, với khối lượng lên tới 2.971,26 tấn vũ khí, tăng hơn gấp 2 lần năm 1963. Trong năm 1964, ta còn đột phá đưa 2 chuyến hàng vào các bến mới ở Vũng Rô (Phú Yên) và Lộ Giao (Bình Định).
Từ năm 1965, khi Mỹ đưa quân ồ ạt vào miền Nam, thực hiện chiến lược "chiến tranh cục bộ", dựa vào sức mạnh của vũ khí và công nghệ, đế quốc Mỹ tăng cường đưa tàu chiến vào tuần tiễu vùng biển Nam Bộ, xây dựng thêm các trạm ra-đa kiểm soát, huy động hàng nghìn lượt máy bay xuất phát từ các tàu sân bay của Hạm đội 7, hàng trăm tàu chiến, cùng với lực lượng Hải quân của quân đội Sài Gòn, tiến hành phong tỏa, kiểm soát gắt gao các cửa sông, cửa biển và vùng hải phận quốc tế, tổ chức săn lùng, chặn bắt tàu thuyền của ta chở hàng từ miền Bắc vào miền Nam. Để đáp ứng nhu cầu vũ khí, đạn dược ngày càng tăng cho chiến trường miền Nam, ta phải tổ chức vận chuyển hàng viện trợ quân sự của các nước anh em bằng tàu biển quốc tế, quá cảnh qua cảng Xi-ha-núc-vin (Cam-pu-chia). Bằng cách này, Đoàn 125 đã đưa vào chiến trường miền Nam hơn 90.870 tấn hàng hóa, trong đó có 20.473 tấn vũ khí, đạn dược.
Trong giai đoạn từ tháng 10-1968 đến tháng 1-1973, theo sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân, Đoàn 125 đã chủ động tìm luồng vận chuyển mới, men theo phía Đông các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đến Đông Bắc Ma-lai-xi-a, qua Vịnh Thái Lan, khu vực quần đảo Nam Du để đưa tàu cập các bến bãi miền Tây Nam Bộ. Với cách thức mới đó, Đoàn 125 đã tổ chức 42 chuyến tầu vượt biển, trong đó có 7 chuyến tới đích. Tuy phải đi vòng rất xa, và phải dự trữ đủ lượng xăng dầu và lương thực cần thiết cho một chuyến đi dài ngày; phải đối mặt với bao thách thức, cam go, nhưng bằng con đường này, Đoàn 125 đã giao được 301 tấn vũ khí, đạn dược cho Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ. Đây là một cố gắng lớn của Đoàn 125 trong điều kiện địch tăng cường bao vây, ngăn chặn và đánh phá ác liệt.
Hiệp định Pa-ri được ký kết (năm 1973), thực hiện sự chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Đoàn 125 tạm dừng nhiệm vụ vận chuyển, chi viện trực tiếp cho các chiến trường miền Nam bằng đường Hồ Chí Minh trên biển. Đến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, các đội tàu của Đoàn 125 lại tiếp tục vận chuyển vật chất, cơ động lực lượng phục vụ cho việc giải phóng các tỉnh và các đảo ven biển miền Nam, đặc biệt đã kịp thời chi viện cho các lực lượng làm nhiệm vụ giải phóng quần đảo Trường Sa.
Như vậy, trong suốt 15 năm làm nhiệm vụ vận tải chiến lược quân sự trên biển (1961-1975), Đoàn 125 đã huy động được 1.879 lượt tàu thuyền, vận chuyển 152.876 tấn vũ khí trang bị kỹ thuật, thuốc chữa bệnh và 80.026 cán bộ, chiến sĩ từ miền Bắc vào miền Nam, chiến đấu hàng trăm trận với máy bay, tàu chiến của Mỹ và quân đội Sài Gòn(3). Với những thành tích đã đạt được, Đoàn 125 Hải quân vinh dự được Đảng, Nhà nước hai lần tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (năm 1967 và năm 1976), 5 Huân chương Quân công, 12 Huân chương Chiến công. 5 tàu và 8 cá nhân được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Có thể nói, tuyến vận tải chiến lược trên biển - đường Hồ Chí Minh trên biển đã trở thành một huyền thoại, một kỳ tích của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đó không chỉ là phương thức chi viện mới hết sức quan trọng, trực tiếp bảo đảm cho các chiến trường ven biển miền Nam, mà còn là một sáng tạo độc đáo của chiến tranh nhân dân trong thời đại Hồ Chí Minh.
Độc đáo bởi, đường Hồ Chí Minh trên biển thể hiện tầm nhìn chiến lược, một sáng tạo ở tầm chiến lược, trong giải quyết mối quan hệ giữa hậu phương với tiền tuyến - nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi của chiến tranh. Cùng với đường Hồ Chí Minh trên dãy Trường Sơn, đường Hồ Chí Minh trên biển tạo nên hai tuyến vận tải chiến lược, bổ sung, hỗ trợ cho nhau, giải quyết nhu cầu của hai hướng chiến lược của chiến trường Nam Bộ: cánh Đông và cánh Tây. Mỗi tuyến vận tải chiến lược có vị trí, vai trò khá độc lập, nhưng đặt trong tổng thể, đã tạo nên hệ thống giao thông huyết mạch chủ đạo và hoàn chỉnh để chi viện kịp thời, hiệu quả sức người, sức của cho miền Nam đánh thắng quân thù. Đường Hồ Chí Minh trên biển thể hiện sinh động quyết tâm chiến lược của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân: tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, vì độc lập, tự do của Tổ quốc.
Độc đáo bởi, nó ra đời vào thời điểm khó khăn, gian khổ, ác liệt nhất của cuộc chiến tranh. Trong khi địch được trang bị các loại vũ khí, thiết bị hiện đại, tối tân, ta mới chỉ có những loại tàu thuyền nhỏ bé, thô sơ, nhưng với tầm nhìn, bản lĩnh và tài thao lược của Đảng, ý chí và khát vọng độc lập tự do, thống nhất đất nước của toàn dân tộc, chúng ta đã biết dựa vào khả năng to lớn của nhân dân để vượt qua mọi khó khăn, từng bước đánh bại các âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chi viện cho chiến trường miền Nam trong những thời điểm khó khăn ác liệt nhất.
Độc đáo còn ở chỗ, đường Hồ Chí Minh trên biển đã quy tụ được sức mạnh của toàn dân tộc, với một quyết tâm sắt đá không gì lay chuyển, đó là dám đánh, biết đánh và biết thắng Mỹ. Có được điều đó là nhờ Đảng ta đã vận dụng sáng tạo đường lối chiến tranh nhân dân, nghệ thuật giành thắng lợi từng bước trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cũng như trong quá trình thực hiện nhiệm vụ vận tải chi viện chiến lược trên biển. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, các lực lượng làm nhiệm vụ, đặc biệt là Quân chủng Hải quân đã nắm chắc tình hình, nhiệm vụ, chủ động xây dựng lực lượng, chuẩn bị phương tiện, huấn luyện chu đáo cho tất cả các lực lượng, kể cả các lực lượng hiệp đồng tác chiến, tạo điều kiện thuận lợi để công tác vận tải đạt kết quả cao nhất; các cấp lãnh đạo, chỉ huy Quân chủng đã tham mưu đúng, tham mưu trúng; chỉ huy thống nhất, quyết đoán, linh hoạt, liên tục và bí mật; triệt để tận dụng thời cơ, đa dạng hóa phương pháp vận tải để chuyển hóa thế trận, làm chủ tình huống.
Trong quá trình mở tuyến vận tải quân sự trên biển, chúng ta còn biết chọn đúng thời cơ; kết hợp hoạt động bí mật và công khai; tàu có thể xuất phát từ nhiều bến (kể cả ở nước ngoài), cập bến ở nhiều điểm; đi trên nhiều cung, tuyến khác nhau, có giai đoạn đi vòng ra biển xa, hải phận quốc tế; địch phong tỏa đường trong ta đi đường ngoài, địch ngăn chặn đường dài ta đi phân đoạn, địch bám đuôi, ta đi ra vùng biển quốc tế, khi địch phát hiện, áp sát tấn công hoặc cướp tàu, ta đánh trả quyết liệt, có lúc phải phá hủy tàu để giữ bí mật.
Đường Hồ Chí Minh trên biển khẳng định đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, trong đó Quân chủng Hải quân là lực lượng chủ yếu có vinh dự được trực tiếp tổ chức thực hiện. Đây là một thành công lớn, một phát triển mới của nghệ thuật quân sự Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, là sự kết hợp hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần để tạo nên sức mạnh to lớn và bền vững. Những bài học kinh nghiệm về đường Hồ Chí Minh trên biển sẽ trường tồn và phát huy tác dụng to lớn, trực tiếp đối với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc hôm nay và mai sau./.
---------------------------------------------------
(1), (2) Bộ Tư lệnh Hải quân, Lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam (1955-2005), Nxb Quân đội nhân dân, H. 2001, tr 98, 105
(3) Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, H. 2005, tr 402
Ở trên bộ, với lực lượng không quân hùng mạnh, kẻ thù đã sử dụng đủ loại máy bay, từ máy bay không người lái, máy bay phản lực, máy bay ném bom, kể cả máy bay ném bom chiến lược B.52, tiến hành ném bom rải thảm, đánh phá, ngăn chặn phương tiện vận tải, phá hỏng cầu, cống, ngầm, đèo, đường dây thông tin, giao liên v.v.. của ta. Ngoài ra, Mỹ còn sử dụng các loại vũ khí, trang bị điện tử như bom từ trường, bom la-de, "cây nhiệt đới" để phát hiện người và mục tiêu trên mặt đất, thả chất độc hóa học hủy diệt các thảm cây xanh, các cánh rừng để phát hiện kho tàng, bến bãi nhằm tiêu diệt sinh lực, phương tiện chiến đấu và cắt đứt tuyến chi viện của ta.
Ở trên biển, ngay từ đầu cuộc chiến tranh, đế quốc Mỹ và quân đội Sài Gòn cũng đã thiết lập 3 hệ thống tuần tiễu để "chống xâm nhập". Một hệ thống cách bờ 12 hải lý được gọi là hệ thống cận duyên; một hệ thống từ 12 hải lý trở ra đến 40 hải lý, được gọi là hệ thống viễn duyên. Trên cả hai hệ thống này, Mỹ và quân đội Sài Gòn sử dụng hàng trăm tàu chiến lớn nhỏ, ngày đêm thay nhau tuần tiễu, lùng sục vào các ngư trường nhằm phát hiện tàu lạ. Ngoài hai hệ thống trên, địch còn sử dụng hệ thống không tuần, cho các máy bay tuần tra ngoài khơi 200 hải lý để phát hiện tàu xâm nhập. Ở những hòn đảo, vùng cửa sông, cửa biển được coi là nhạy cảm và có tính chiến lược như: cù lao Ré, đảo Hòn Khoai, Côn Sơn, cửa Bồ Đề, Gành Hào hay cửa sông Ông Đốc… địch thiết lập những căn cứ hỏa lực mạnh, những hạm đoàn lớn để không chỉ kiểm soát vùng cận duyên mà còn mở rộng tầm kiểm soát ra khu vực hải phận quốc tế.
Phải đương đầu với một kẻ thù hung bạo có tiềm lực và sức mạnh quân sự, kinh tế, trình độ khoa học, công nghệ hiện đại hơn gấp nhiều lần, ngay từ sau khi có Nghị quyết Trung ương 15, Đảng ta đã chủ trương chuyển hướng chiến lược của cách mạng miền Nam từ đấu tranh chính trị sang đấu tranh vũ trang; kết hợp đấu tranh quân sự với đấu tranh chính trị chống đế quốc Mỹ xâm lược và tay sai. Cũng từ đó, nhu cầu chi viện cho các chiến trường miền Nam ngày càng lớn. Theo sự chỉ đạo của Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương, ngày 19-5-1959, Đoàn 559 được thành lập, có nhiệm vụ mở đường vận chuyển hàng hóa, tổ chức đưa đón bộ đội, cán bộ từ Bắc vào Nam và từ Nam ra Bắc. Tiếp đó, để tăng cường hơn nữa công tác chi viện cho đồng bào, chiến sĩ miền Nam ở chiến trường Nam Trung Bộ và Nam Bộ đang trực tiếp đánh Mỹ, tháng 7-1959, Bộ Tổng tư lệnh quyết định thành lập Tiểu đoàn vận tải thủy 603. Để giữ bí mật, đơn vị hoạt động dưới tên gọi "Tập đoàn đánh cá Sông Gianh", đóng quân tại thôn Thanh Khê, xã Thạch Trạch, huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
Những ngày đầu hoạt động trong điều kiện vô cùng khó khăn, ác liệt, đặc biệt là còn thiếu kinh nghiệm và hiểu biết về tình hình cụ thể tại các tỉnh duyên hải phía Nam. Chuyến vượt biển đầu tiên bằng thuyền buồm của Tiểu đoàn 603 không thành công do thuyền gặp gió mùa, sóng lớn, bị trôi dạt và không về được tới đích, cả 6 thuyền viên đều bị địch bắt, Tiểu đoàn 603 tạm ngừng hoạt động để tìm giải pháp và phương thức vận chuyển phù hợp.
Ở miền Nam, trong thời gian này, dưới sự chỉ đạo của Trung ương Đảng, các tỉnh ven biển như Bến Tre, Cà Mau, Trà Vinh, Bà Rịa cũng đã tổ chức nghiên cứu, chuẩn bị lực lượng, phương tiện để ra Bắc tiếp nhận vũ khí. Đầu năm 1961, các tỉnh trên đã dùng 5 thuyền gỗ đánh cá, bí mật ra Bắc. Trong đó, tỉnh Bến Tre có 2 thuyền; Bạc Liêu có 2 thuyền; Trà Vinh có 1 thuyền. Riêng tỉnh Bà Rịa có một thuyền đang trên đường ra Bắc thì bị địch bắt. Qua tổng kết kinh nghiệm hoạt động của Tiểu đoàn 603 và chuyến vượt biển ra Bắc của các thuyền ở 4 tỉnh Nam Bộ, ngày 23-10-1961, Bộ Chính trị và Quân ủy Trung ương quyết định thành lập Đoàn Vận tải biển 759, đặt dưới sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ Quốc phòng(1). Sau khi thành lập, Đoàn 759 bắt tay ngay vào xây dựng kế hoạch vận chuyển, trong đó nhấn mạnh đến phương thức vận chuyển, phương pháp tiến hành và hướng đột phá. Về phương tiện vận chuyển, đề án chỉ rõ, trước mắt tận dụng những phương tiện thô sơ, nửa hiện đại. Sau đó tổ chức nghiên cứu để có các đội tàu tương đối hiện đại, trọng tải lớn, có thể hoạt động quanh năm, không phụ thuộc vào thời tiết, gió bão; khi có thời cơ, sẽ sử dụng những đội tàu có sức chở 200 đến 500 tấn/chiếc; về phương châm vận chuyển, kết hợp hoạt động hợp pháp và bất hợp pháp; lấy hoạt động hợp pháp làm phương thức chủ yếu. Trong quá trình vận chuyển, đơn vị phải chủ động, táo bạo, bất ngờ, lợi dụng sơ hở của địch để đưa hàng đến bến; đồng thời phải có các phương án linh hoạt để đối phó khi bị phát hiện. Trong trường hợp bị địch phát hiện, phải kiên quyết chiến đấu bảo vệ hàng; nếu cần thì nổ tàu để giữ bí mật. Về hướng đột phá, Quân ủy Trung ương và Bộ Quốc phòng quyết định hướng đột phá của Đoàn sẽ là Nam Bộ, sau đó sẽ phát triển ra Khu 5.
Sau một thời gian xây dựng, ổn định tổ chức biên chế, chuẩn bị tàu thuyền và đi trinh sát thực địa, trung tuần tháng 8-1962, Quân ủy Trung ương quyết định mở đợt vận chuyển vũ khí vào Nam. Từ đây, Đoàn 759 bước vào giai đoạn thực hiện vận chuyển để làm nên con đường huyền thoại trên Biển Đông - đường Hồ Chí Minh trên biển (2). Sự ra đời của Đoàn 759 cùng với việc khai thông tuyến chi viện chiến lược Bắc - Nam trên biển là sự kiện hết sức có ý nghĩa. Từ đây, các địa phương ven biển miền Nam, chiến trường Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ (B2) đã nhận được sự chi viện trực tiếp của miền Bắc, tạo nên sức mạnh và niềm tin to lớn cho các lực lượng vũ trang trên chiến trường miền Nam.
Với tinh thần thần tốc, táo bạo, tất cả vì miền Nam ruột thịt, đêm 11-10-1962 chiếc tàu gỗ gắn máy đầu tiên của Đoàn 759 do đồng chí Lê Văn Một - Thuyền trưởng và đồng chí Bông Văn Dĩa - Bí thư chi bộ chở hơn 30 tấn vũ khí đầu tiên bí mật rời bến Nghiêng (Hải Phòng). Sau 9 ngày vượt biển, con tàu cập bến Vàm Lũng (Cà Mau) an toàn đánh dấu một sự kiện quan trọng "đường Hồ Chí Minh trên biển" đã được khai thông. Nhận được tin đó, Bác Hồ kính yêu đã gửi điện động viên, khen ngợi cán bộ, chiến sĩ và căn dặn cần rút kinh nghiệm chuyến đi, tiếp tục vận chuyển nhanh hơn nữa, nhiều hơn nữa vũ khí cho đồng bào miền Nam đánh giặc, cho Nam - Bắc sớm sum họp một nhà. Với tinh thần khẩn trương, quay vòng, tăng chuyến, trong năm 1963, Đoàn 759 đã thực hiện được 23 chuyến, vận chuyển được hơn 1.318,68 tấn hàng hóa, chủ yếu là vũ khí và thuốc men vào các tỉnh Cà Mau, Bến Tre, Trà Vinh, Bà Rịa. Ngoài ra, Đoàn còn đưa đón hàng chục cán bộ cao cấp của Đảng, quân đội và chuyên gia quân sự vào miền Nam và từ miền Nam ra miền Bắc báo cáo với Trung ương và nhận chỉ thị mới, kịp thời bổ sung cho công tác lãnh đạo, chỉ đạo, chỉ huy chiến đấu trên chiến trường miền Nam, góp phần quan trọng làm thất bại chiến lược "chiến tranh đặc biệt" của đế quốc Mỹ và tay sai, mở rộng vùng giải phóng, tạo thế và lực mới cho cách mạng miền Nam.
Trước sự phát triển nhanh chóng và hoạt động vận chuyển có hiệu quả của Đoàn 759, để tăng cường hơn nữa khả năng hoàn thành nhiệm vụ, bảo đảm nhu cầu chi viện ngày càng lớn cho chiến trường, đồng thời nhất quán với nguyên tắc vận tải thủy là gọn nhẹ, chặt chẽ và hết sức tiết kiệm, tháng 9-1963, Quân ủy Trung ương quyết định giao nhiệm vụ vận chuyển bằng đường biển cho Quân chủng Hải quân. Đến ngày 24-1-1964, Đoàn 759 được điều chỉnh tổ chức, phát triển thành Đoàn 125 Hải quân. Trong thời gian này, xuất phát từ yêu cầu của các chiến trường, Đoàn 125 tập trung đưa hàng vào Khu 9, Khu 8, Khu 7 và Khu Sài Gòn - Gia Định, đồng thời xúc tiến việc mở bến mới chi viện cho chiến trường Khu 5, Khu 6. Kết quả, trong năm 1964, Đoàn 125 tổ chức vận chuyển được 52 chuyến vào chiến trường, với khối lượng lên tới 2.971,26 tấn vũ khí, tăng hơn gấp 2 lần năm 1963. Trong năm 1964, ta còn đột phá đưa 2 chuyến hàng vào các bến mới ở Vũng Rô (Phú Yên) và Lộ Giao (Bình Định).
Từ năm 1965, khi Mỹ đưa quân ồ ạt vào miền Nam, thực hiện chiến lược "chiến tranh cục bộ", dựa vào sức mạnh của vũ khí và công nghệ, đế quốc Mỹ tăng cường đưa tàu chiến vào tuần tiễu vùng biển Nam Bộ, xây dựng thêm các trạm ra-đa kiểm soát, huy động hàng nghìn lượt máy bay xuất phát từ các tàu sân bay của Hạm đội 7, hàng trăm tàu chiến, cùng với lực lượng Hải quân của quân đội Sài Gòn, tiến hành phong tỏa, kiểm soát gắt gao các cửa sông, cửa biển và vùng hải phận quốc tế, tổ chức săn lùng, chặn bắt tàu thuyền của ta chở hàng từ miền Bắc vào miền Nam. Để đáp ứng nhu cầu vũ khí, đạn dược ngày càng tăng cho chiến trường miền Nam, ta phải tổ chức vận chuyển hàng viện trợ quân sự của các nước anh em bằng tàu biển quốc tế, quá cảnh qua cảng Xi-ha-núc-vin (Cam-pu-chia). Bằng cách này, Đoàn 125 đã đưa vào chiến trường miền Nam hơn 90.870 tấn hàng hóa, trong đó có 20.473 tấn vũ khí, đạn dược.
Trong giai đoạn từ tháng 10-1968 đến tháng 1-1973, theo sự chỉ đạo trực tiếp của Đảng ủy - Bộ Tư lệnh Quân chủng Hải quân, Đoàn 125 đã chủ động tìm luồng vận chuyển mới, men theo phía Đông các quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa đến Đông Bắc Ma-lai-xi-a, qua Vịnh Thái Lan, khu vực quần đảo Nam Du để đưa tàu cập các bến bãi miền Tây Nam Bộ. Với cách thức mới đó, Đoàn 125 đã tổ chức 42 chuyến tầu vượt biển, trong đó có 7 chuyến tới đích. Tuy phải đi vòng rất xa, và phải dự trữ đủ lượng xăng dầu và lương thực cần thiết cho một chuyến đi dài ngày; phải đối mặt với bao thách thức, cam go, nhưng bằng con đường này, Đoàn 125 đã giao được 301 tấn vũ khí, đạn dược cho Nam Bộ và cực Nam Trung Bộ. Đây là một cố gắng lớn của Đoàn 125 trong điều kiện địch tăng cường bao vây, ngăn chặn và đánh phá ác liệt.
Hiệp định Pa-ri được ký kết (năm 1973), thực hiện sự chỉ đạo của Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Đoàn 125 tạm dừng nhiệm vụ vận chuyển, chi viện trực tiếp cho các chiến trường miền Nam bằng đường Hồ Chí Minh trên biển. Đến cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa Xuân năm 1975, các đội tàu của Đoàn 125 lại tiếp tục vận chuyển vật chất, cơ động lực lượng phục vụ cho việc giải phóng các tỉnh và các đảo ven biển miền Nam, đặc biệt đã kịp thời chi viện cho các lực lượng làm nhiệm vụ giải phóng quần đảo Trường Sa.
Như vậy, trong suốt 15 năm làm nhiệm vụ vận tải chiến lược quân sự trên biển (1961-1975), Đoàn 125 đã huy động được 1.879 lượt tàu thuyền, vận chuyển 152.876 tấn vũ khí trang bị kỹ thuật, thuốc chữa bệnh và 80.026 cán bộ, chiến sĩ từ miền Bắc vào miền Nam, chiến đấu hàng trăm trận với máy bay, tàu chiến của Mỹ và quân đội Sài Gòn(3). Với những thành tích đã đạt được, Đoàn 125 Hải quân vinh dự được Đảng, Nhà nước hai lần tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân (năm 1967 và năm 1976), 5 Huân chương Quân công, 12 Huân chương Chiến công. 5 tàu và 8 cá nhân được tuyên dương Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân.
Có thể nói, tuyến vận tải chiến lược trên biển - đường Hồ Chí Minh trên biển đã trở thành một huyền thoại, một kỳ tích của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Đó không chỉ là phương thức chi viện mới hết sức quan trọng, trực tiếp bảo đảm cho các chiến trường ven biển miền Nam, mà còn là một sáng tạo độc đáo của chiến tranh nhân dân trong thời đại Hồ Chí Minh.
Độc đáo bởi, đường Hồ Chí Minh trên biển thể hiện tầm nhìn chiến lược, một sáng tạo ở tầm chiến lược, trong giải quyết mối quan hệ giữa hậu phương với tiền tuyến - nhân tố thường xuyên quyết định thắng lợi của chiến tranh. Cùng với đường Hồ Chí Minh trên dãy Trường Sơn, đường Hồ Chí Minh trên biển tạo nên hai tuyến vận tải chiến lược, bổ sung, hỗ trợ cho nhau, giải quyết nhu cầu của hai hướng chiến lược của chiến trường Nam Bộ: cánh Đông và cánh Tây. Mỗi tuyến vận tải chiến lược có vị trí, vai trò khá độc lập, nhưng đặt trong tổng thể, đã tạo nên hệ thống giao thông huyết mạch chủ đạo và hoàn chỉnh để chi viện kịp thời, hiệu quả sức người, sức của cho miền Nam đánh thắng quân thù. Đường Hồ Chí Minh trên biển thể hiện sinh động quyết tâm chiến lược của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân: tất cả cho tiền tuyến, tất cả để đánh thắng giặc Mỹ xâm lược, vì độc lập, tự do của Tổ quốc.
Độc đáo bởi, nó ra đời vào thời điểm khó khăn, gian khổ, ác liệt nhất của cuộc chiến tranh. Trong khi địch được trang bị các loại vũ khí, thiết bị hiện đại, tối tân, ta mới chỉ có những loại tàu thuyền nhỏ bé, thô sơ, nhưng với tầm nhìn, bản lĩnh và tài thao lược của Đảng, ý chí và khát vọng độc lập tự do, thống nhất đất nước của toàn dân tộc, chúng ta đã biết dựa vào khả năng to lớn của nhân dân để vượt qua mọi khó khăn, từng bước đánh bại các âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chi viện cho chiến trường miền Nam trong những thời điểm khó khăn ác liệt nhất.
Độc đáo còn ở chỗ, đường Hồ Chí Minh trên biển đã quy tụ được sức mạnh của toàn dân tộc, với một quyết tâm sắt đá không gì lay chuyển, đó là dám đánh, biết đánh và biết thắng Mỹ. Có được điều đó là nhờ Đảng ta đã vận dụng sáng tạo đường lối chiến tranh nhân dân, nghệ thuật giành thắng lợi từng bước trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, cũng như trong quá trình thực hiện nhiệm vụ vận tải chi viện chiến lược trên biển. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, các lực lượng làm nhiệm vụ, đặc biệt là Quân chủng Hải quân đã nắm chắc tình hình, nhiệm vụ, chủ động xây dựng lực lượng, chuẩn bị phương tiện, huấn luyện chu đáo cho tất cả các lực lượng, kể cả các lực lượng hiệp đồng tác chiến, tạo điều kiện thuận lợi để công tác vận tải đạt kết quả cao nhất; các cấp lãnh đạo, chỉ huy Quân chủng đã tham mưu đúng, tham mưu trúng; chỉ huy thống nhất, quyết đoán, linh hoạt, liên tục và bí mật; triệt để tận dụng thời cơ, đa dạng hóa phương pháp vận tải để chuyển hóa thế trận, làm chủ tình huống.
Trong quá trình mở tuyến vận tải quân sự trên biển, chúng ta còn biết chọn đúng thời cơ; kết hợp hoạt động bí mật và công khai; tàu có thể xuất phát từ nhiều bến (kể cả ở nước ngoài), cập bến ở nhiều điểm; đi trên nhiều cung, tuyến khác nhau, có giai đoạn đi vòng ra biển xa, hải phận quốc tế; địch phong tỏa đường trong ta đi đường ngoài, địch ngăn chặn đường dài ta đi phân đoạn, địch bám đuôi, ta đi ra vùng biển quốc tế, khi địch phát hiện, áp sát tấn công hoặc cướp tàu, ta đánh trả quyết liệt, có lúc phải phá hủy tàu để giữ bí mật.
Đường Hồ Chí Minh trên biển khẳng định đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng ta là đúng đắn, sáng tạo, trong đó Quân chủng Hải quân là lực lượng chủ yếu có vinh dự được trực tiếp tổ chức thực hiện. Đây là một thành công lớn, một phát triển mới của nghệ thuật quân sự Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh, là sự kết hợp hữu cơ các giá trị vật chất và tinh thần để tạo nên sức mạnh to lớn và bền vững. Những bài học kinh nghiệm về đường Hồ Chí Minh trên biển sẽ trường tồn và phát huy tác dụng to lớn, trực tiếp đối với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc hôm nay và mai sau./.
---------------------------------------------------
(1), (2) Bộ Tư lệnh Hải quân, Lịch sử Hải quân nhân dân Việt Nam (1955-2005), Nxb Quân đội nhân dân, H. 2001, tr 98, 105
(3) Từ điển Bách khoa quân sự Việt Nam, Nxb Quân đội nhân dân, H. 2005, tr 402
Ra mắt cuốn sách "Liên Xô/Nga - Việt Nam: Những cột mốc hợp tác"  (08/10/2011)
Hội nghị Pa-na-ma về chống biến đổi khí hậu đạt bước tiến rõ rệt  (08/10/2011)
Học viện Chính trị - 60 năm xây dựng và phát triển  (07/10/2011)
Thủ tướng tiếp Bộ trưởng Bộ Ngoại thương và Đầu tư nước ngoài Cu-ba  (07/10/2011)
Chủ tịch nước Trương Tấn Sang tiếp Bộ trưởng Ngoại giao Phi-líp-pin, Chủ tịch Liên minh Nghị sĩ Hữu nghị Nhật - Việt  (07/10/2011)
Chú trọng công tác tổ chức xây dựng Đảng  (07/10/2011)
- Một số vấn đề về chuyển đổi nội dung số trong các tạp chí của Việt Nam hiện nay
- Tỉnh Nam Định xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội
- Mối quan hệ giữa Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Cộng sản Pháp: Nền tảng góp phần phát triển quan hệ Đối tác chiến lược toàn diện Việt Nam - Pháp
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm