Quan điểm cơ bản của C. Mác về sở hữu và việc vận dụng vào các văn kiện Đại hội XI của Đảng
Những quan điểm cơ bản của C. Mác về sở hữu
1 - Sở hữu là một điều kiện của sản xuất, là nền móng của toàn bộ kết cấu xã hội, do đó, của mọi hình thái đặc thù nhất định của nhà nước
Theo C. Mác, bất kỳ một nền sản xuất nào cũng đều là việc con người chiếm hữu những vật phẩm của tự nhiên trong phạm vi một hình thái xã hội nhất định và thông qua hình thái đó. Theo ý nghĩa này, sở hữu (sự chiếm hữu) là một điều kiện của sản xuất.
Trong mối quan hệ giữa người sở hữu các điều kiện sản xuất và người sản xuất trực tiếp - mối quan hệ mà mọi hình thái nhất định của nó bao giờ cũng tương ứng một cách tự nhiên với một trình độ phát triển nhất định của phương thức lao động, vì vậy, cũng tương ứng với sức sản xuất xã hội của lao động - chúng ta tìm ra được cái điều bí ẩn sâu xa nhất, cái nền móng thầm kín nhất của toàn bộ kết cấu xã hội, và do đó, của hình thức chính trị, của mọi hình thái đặc thù nhất định của nhà nước.
2 - Quan hệ sở hữu biến đổi theo trình độ phát triển của lực lượng sản xuất
C. Mác cho rằng, quan hệ sở hữu là một mặt của quan hệ sản xuất - những quan hệ này phù hợp với trình độ phát triển nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất. Khi phát triển tới một giai đoạn nhất định, các lực lượng sản xuất vật chất của xã hội mâu thuẫn với những quan hệ sản xuất hiện có, hay mâu thuẫn với những quan hệ sở hữu, trong đó từ trước đến nay các lực lượng sản xuất vẫn phát triển. Từ chỗ là những hình thức phát triển của các lực lượng sản xuất, những quan hệ ấy trở thành những xiềng xích của các lực lượng sản xuất; khi đó, bắt đầu thời đại của một cuộc cách mạng xã hội. Vì thế, tất cả những quan hệ sở hữu đều trải qua những thay đổi và cải biến liên tiếp trong lịch sử.
Những tư liệu sản xuất và trao đổi, làm cơ sở cho giai cấp tư sản hình thành, đã được tạo ra từ trong lòng xã hội phong kiến. Nhưng tới một trình độ nhất định, những quan hệ sở hữu phong kiến không còn phù hợp với những lực lượng sản xuất đã phát triển ấy nữa. Những quan hệ đó đã cản trở sản xuất, chứ không làm cho sản xuất tiến triển lên. Phải đập tan những xiềng xích ấy, và quả nhiên những xiềng xích ấy đã bị đập tan. Chẳng hạn, cách mạng tư sản Pháp đã xóa bỏ chế độ sở hữu phong kiến để thay bằng chế độ sở hữu tư sản.
Xã hội tư sản hiện đại, với những quan hệ sản xuất và trao đổi tư sản của nó, với những quan hệ sở hữu tư sản, đã tạo ra những tư liệu sản xuất và trao đổi hết sức mạnh mẽ. Và những lực lượng sản xuất hiện đại ấy đã nổi dậy chống lại những quan hệ sản xuất hiện đại, chống lại những quan hệ sở hữu đang quyết định sự tồn tại và sự thống trị của giai cấp tư sản. Những lực lượng sản xuất mà xã hội sẵn có không thúc đẩy quan hệ sở hữu tư sản phát triển nữa, trái lại, chúng đã trở thành quá mạnh đối với quan hệ sở hữu ấy, cản trở sự phát triển của chúng, mà nếu khắc phục sự cản trở ấy thì lại xô đẩy toàn thể xã hội tư sản vào tình trạng rối loạn và đe dọa sự sống còn của sở hữu tư sản. Những quan hệ tư sản đã trở thành quá hẹp, không đủ để chứa đựng những của cải đã được tạo ra trong lòng nó nữa. Những vũ khí mà giai cấp tư sản đã dùng để đánh đổ chế độ phong kiến thì ngày nay quay lại đập vào chính ngay giai cấp tư sản.
Một trong những điều kiện ra đời và tồn tại của sản xuất tư bản chủ nghĩa là sự tập trung được một số lớn tư bản vào trong tay một số ít người để mua tư liệu sản xuất và sức lao động nhằm lập ra xí nghiệp tư bản chủ nghĩa. Sự tích tụ một khối lượng lớn tư bản riêng rẽ là điều kiện vật chất cho sự hợp tác của những công nhân làm thuê và quy mô hợp tác hoặc quy mô sản xuất phụ thuộc vào quy mô của sự tích tụ đó. Do tác động của cạnh tranh, của tiến bộ khoa học - kỹ thuật, quy mô tối thiểu của tư bản cá biệt ngày càng lớn, nên việc biến những sở hữu nhỏ của số đông những người sản xuất hàng hóa nhỏ thành sở hữu lớn của một số ít nhà tư bản càng diễn ra khốc liệt. Chính vì vậy, chế độ tư bản chủ nghĩa là sự phủ định đầu tiên đối với chế độ tư hữu cá nhân dựa trên lao động của bản thân người đó. Nhưng nền sản xuất tư bản chủ nghĩa lại đẻ ra sự phủ định bản thân nó, với tính tất yếu của quá trình tự nhiên. Đó là sự phủ định cái phủ định.
Trong lòng xã hội tư bản chủ nghĩa, những yếu tố vật chất của một xã hội mới đã từng bước hình thành. Chẳng hạn, trong công ty cổ phần tư bản trực tiếp mang hình thái tư bản xã hội (tư bản của những cá nhân trực tiếp liên hiệp lại với nhau), đối lập với tư bản tư nhân. Đó là sự thủ tiêu tư bản với tư cách là sở hữu tư nhân ở trong những giới hạn của bản thân phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Đó là kết quả của sự phát triển cao nhất của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, là điểm quá độ tất nhiên để tư bản lại chuyển thành sở hữu của những người sản xuất nhưng không phải với tư cách là sở hữu tư nhân của những người sản xuất riêng lẻ nữa, mà với tư cách là sở hữu của những người sản xuất liên hiệp, thành sở hữu xã hội trực tiếp. Mặt khác, các công ty cổ phần cũng là điểm quá độ để biến tất cả những chức năng của quá trình tái sản xuất hiện còn gắn liền với quyền sở hữu tư bản đơn giản thành những chức năng của những người sản xuất liên hiệp, tức là thành những chức năng xã hội.
Sự biến đổi quan hệ sản xuất nói chung, trong đó có quan hệ sở hữu nói riêng, là một quá trình lịch sử tự nhiên. Do đó, không thể tiến hành cách mạng quan hệ sản xuất một cách chủ quan, duy ý chí, vì không một hình thái xã hội nào diệt vong trước khi tất cả những lực lượng sản xuất mà hình thái xã hội đó tạo địa bàn đầy đủ cho phát triển, vẫn chưa phát triển, và những quan hệ sản xuất mới, cao hơn, cũng không bao giờ xuất hiện trước khi những điều kiện tồn tại vật chất của những quan hệ đó chưa chín muồi trong lòng bản thân xã hội cũ. Những lực lượng sản xuất phát triển trong lòng xã hội tư sản đồng thời cũng tạo điều kiện vật chất để giải quyết những đối kháng trong xã hội đó.
Như vậy, lực lượng sản xuất phát triển sẽ dẫn đến thay đổi quan hệ sở hữu; bất cứ một sự cải biến nào về quan hệ sở hữu cũng đều là kết quả tất yếu của việc tạo nên những lực lượng sản xuất mới, không còn phù hợp với các quan hệ sở hữu cũ nữa. Chính vì không nắm vững nguyên lý này, trước khi tiến hành công cuộc đổi mới ở nước ta, đã từng có nhận thức sai lầm rằng, bằng tính chủ động của chuyên chính vô sản có thể tạo ra quan hệ sản xuất mới, thậm chí đưa quan hệ sở hữu đi trước một bước, để mở đường cho lực lượng sản xuất phát triển.
3 - Quan hệ sở hữu quyết định quan hệ phân phối
Khi nói đến lợi ích kinh tế hay quyền con người, người ta chỉ thường nghĩ đến việc phân phối sản phẩm tiêu dùng cá nhân hay phân phối kết quả sản xuất nói chung. Song, C.Mác đã chỉ rõ: "Bất kỳ một sự phân phối nào về tư liệu tiêu dùng cũng chỉ là hậu quả của sự phân phối chính ngay những điều kiện sản xuất; nhưng sự phân phối những điều kiện sản xuất lại là một tính chất của chính ngay phương thức sản xuất. Ví dụ, phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa dựa trên tình hình là những điều kiện vật chất của sản xuất lại nằm ở trong tay những kẻ không lao động, dưới hình thức sở hữu tư bản và sở hữu ruộng đất, còn quần chúng chỉ là kẻ sở hữu những điều kiện người của sản xuất, tức là sức lao động. Nếu những yếu tố của sản xuất được phân phối như thế thì việc phân phối hiện nay về tư liệu tiêu dùng tự nó cũng do đó mà ra. Nếu những điều kiện vật chất của sản xuất là sở hữu tập thể của bản thân những người lao động thì cũng sẽ có một sự phân phối những tư liệu tiêu dùng khác với sự phân phối hiện nay"(1).
Hiện nay, ngay cả kinh tế học ở các nước đang phát triển và các nước tư bản chủ nghĩa phát triển khi nói tới bảo đảm công bằng xã hội cũng không chỉ quan tâm đến tăng sở hữu cá nhân của mỗi người đối với tư liệu tiêu dùng thông qua tăng thu nhập, tăng phúc lợi xã hội và điều tiết sự phân phối thu nhập, mà còn đề cập đến vấn đề sở hữu các "tài sản sinh lời" hay "các điều kiện sản xuất".
Ở nước ta hiện nay còn có quan niệm sai lầm cho rằng, sở hữu chỉ là phương tiện, tăng trưởng kinh tế mới là mục tiêu, là điều quan trọng. Cứ tăng trưởng kinh tế ắt sẽ có công bằng xã hội. Nhưng chính việc phân phối không đều về quyền sở hữu các "tài sản sinh lời", "các yếu tố sản xuất" giữa các tầng lớp dân cư là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự chênh lệch lớn về thu nhập giữa những người giàu và những người nghèo, làm tăng sự bất công xã hội. Cho nên, một mặt, không được nóng vội xóa bỏ hay xác lập hình thức sở hữu nào đó một cách chủ quan; mặt khác, vẫn phải luôn luôn quan tâm giải quyết từng bước quan hệ sản xuất, trong đó có quan hệ sở hữu, sao cho phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất mới và lợi ích của người lao động để giảm dần sự bất bình đẳng trong xã hội. Chẳng hạn, Nhà nước giúp đỡ những người nghèo vay vốn, hướng dẫn họ tự tạo việc làm để từng bước hoàn lại vốn vay và tạo ra vốn thuộc sở hữu riêng của mình; giao quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho hộ nông dân; vận động người sản xuất nhỏ tham gia các hình thức kinh tế hiệp tác và tăng dần các tài sản thuộc sở hữu tập thể, tiến tới thực hiện phân phối theo lao động là chủ yếu, v.v..
4 - Tính đặc thù của sở hữu ruộng đất
Sở hữu ruộng đất khác với các hình thái sở hữu khác là ở chỗ, đến một trình độ phát triển kinh tế nhất định, nó sẽ trở nên thừa và có hại, ngay cả khi xét trên bình diện phương thức sản xuất tư bản chủ nghĩa. Sở dĩ như vậy là vì, nếu duy trì quan hệ sở hữu tư nhân về ruộng đất và cho mua bán tự do ruộng đất thì giá cả ruộng đất và địa tô sẽ tăng cao. Điều đó chỉ có lợi cho địa chủ, các ngân hàng địa ốc và kẻ đầu cơ, còn người trực tiếp canh tác thì bị thiệt thòi do phải dành một số tiền lớn vào mua ruộng đất hay nộp tô, nên giảm phần vốn đầu tư vào thâm canh, ứng dụng công nghệ mới, thậm chí giá cả ruộng đất có thể lên cao đến mức khiến cho việc sản xuất không thể tiến hành được. Hơn nữa, chủ sở hữu ruộng đất muốn rút ngắn thời hạn cho thuê ruộng đất (thường là ba năm) để khi hết hạn hợp đồng sẽ gộp địa tô chênh lệch II (nếu có) vào tiền thuê ruộng, nên không khuyến khích người thuê ruộng thâm canh. Đó là nguyên nhân dẫn đến cái mà Đ. Ri-các-đô và một số nhà kinh tế tư sản khác gọi là "quy luật mầu mỡ đất đai ngày càng giảm sút". C. Mác đã phê phán luận điểm sai lầm đó và chỉ ra rằng, nếu xóa bỏ chế độ tư hữu về ruộng đất, thì ngay trong chủ nghĩa tư bản cũng có thể canh tác hợp lý và làm cho ruộng đất ngày càng mầu mỡ hơn. Chính vì vậy, những nhà kinh tế tư sản tiến bộ cũng đã kiên quyết đòi quốc hữu hóa ruộng đất.
Trong lịch sử cũng như trong thực tiễn hiện nay, không chỉ những nước đi lên chủ nghĩa xã hội mới quốc hữu hóa ruộng đất(2). Khi phân tích sự phát sinh địa tô, C. Mác đã chỉ ra rằng, ở châu Á, nhà vua đồng thời là chủ sở hữu ruộng đất nên địa tô kết hợp làm một với thuế khóa. "Ở đây, nhà nước là kẻ sở hữu ruộng đất tối cao. Chủ quyền ở đây là quyền sở hữu ruộng đất, tập trung trên phạm vi cả nước. Nhưng, trong trường hợp đó lại không có quyền sở hữu tư nhân đối với ruộng đất, mặc dù vẫn có quyền chiếm hữu ruộng đất và quyền sử dụng ruộng đất, quyền này hoặc là của tư nhân, hoặc của cộng đồng"(3).
Như vậy, quyền sở hữu pháp lý về ruộng đất thuộc về nhà nước, còn quyền chiếm hữu thực tế và quyền sử dụng ruộng đất hoặc là thuộc tư nhân (tư hữu), hoặc là thuộc cộng đồng (công hữu). Hai quyền này thuộc về tư nhân hay cộng đồng là tiêu thức chủ yếu để phân biệt tư hữu hay công hữu, và việc mua bán ruộng đất trên thực tế chỉ là chuyển nhượng quyền chiếm hữu thực tế và quyền sử dụng, không chuyển quyền sở hữu pháp lý(4).
Sự vận dụng những quan điểm nói trên vào các văn kiện Đại hội XI của Đảng
Khi phân tích bối cảnh quốc tế, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011) đã nhận định: Hiện tại, chủ nghĩa tư bản còn tiềm năng phát triển, nhưng về bản chất vẫn là một chế độ áp bức, bóc lột và bất công. Những mâu thuẫn cơ bản vốn có của chủ nghĩa tư bản, nhất là mâu thuẫn giữa tính chất xã hội hóa ngày càng cao của lực lượng sản xuất với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, chẳng những không giải quyết được mà ngày càng trở nên sâu sắc. Khủng hoảng kinh tế, chính trị, xã hội vẫn tiếp tục xảy ra. Chính sự vận động của những mâu thuẫn nội tại đó và cuộc đấu tranh của nhân dân lao động sẽ quyết định vận mệnh của chủ nghĩa tư bản.
Các văn kiện Đại hội XI của Đảng cũng đề ra các chủ trương:
- Phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất, đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Phát triển đa dạng các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế, các loại hình doanh nghiệp, bảo hộ các quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu tài sản thuộc về các hình thức sở hữu, các loại hình doanh nghiệp trong nền kinh tế; xây dựng, hoàn thiện luật pháp về sở hữu đối với các loại tài sản mới, như sở hữu trí tuệ, cổ phiếu, trái phiếu, tài nguyên nước,... quy định rõ quyền, trách nhiệm của các chủ sở hữu đối với xã hội.
- Khuyến khích phát triển các hình thức tổ chức sản xuất, kinh doanh với sở hữu hỗn hợp mà chủ yếu là các doanh nghiệp cổ phần để loại hình kinh tế này trở thành phổ biến trong nền kinh tế, thúc đẩy xã hội hóa sản xuất, kinh doanh và sở hữu. Đẩy mạnh cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
- Đổi mới, hoàn thiện luật pháp, cơ chế, chính sách về sở hữu đối với đất đai, tài nguyên, vốn và các loại tài sản công khác để tài nguyên, vốn và các tài sản công được quản lý, sử dụng có hiệu quả, khắc phục tình trạng thất thoát, lãng phí. Đất đai, tài nguyên, vốn, tài sản do Nhà nước đại diện chủ sở hữu được giao cho các chủ thể thuộc mọi thành phần kinh tế sử dụng theo nguyên tắc hiệu quả. Các chủ thể có quyền và nghĩa vụ như nhau trong sử dụng có hiệu quả các nguồn lực của Nhà nước.
Điều đó có nghĩa là Nhà nước chỉ nắm quyền sở hữu pháp lý về đất đai, tài nguyên, vốn, tài sản công..., còn quyền sử dụng (đáng lẽ phải thêm cụm từ "và quyền chiếm hữu thực tế") được giao cho các chủ thể (kể cả doanh nghiệp hay cơ quan nhà nước, hợp tác xã, tư nhân...). Tiêu thức quan trọng là phải sử dụng có hiệu quả.
- Công bằng trong phân phối các yếu tố sản xuất, tiếp cận và sử dụng các cơ hội, điều kiện phát triển. Phân phối kết quả làm ra chủ yếu theo kết quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội.
Như vậy, những quan điểm cơ bản của C. Mác về sở hữu, cũng như nhiều nguyên lý khác của chủ nghĩa Mác - Lê-nin nói chung, vẫn là cơ sở khoa học giúp chúng ta nhận thức đúng và giải quyết những vấn đề của cuộc sống hiện nay./.
---------------------------------------------
(1) C. Mác và Ph. Ăngghen: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t 19, tr 36 – 37
(2) Theo tư liệu dẫn ra trong tác phẩm "Kinh tế chính trị học hiện đại" (do VS, GS, TS Trình Ân Phú chủ biên, Nxb Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, 2007), ở Anh, luật pháp quy định toàn bộ đất đai thống nhất thuộc sở hữu nhà vua, và cũng chính là sở hữu chính phủ; ở Ca-na-đa, đất đai thuộc sở hữu công cộng của Liên bang và tỉnh gọi là đất đai hoàng gia, tổng cộng chiếm 90% diện tích lãnh thổ
(3) C. Mác và Ph. Ăngghen: Sđd, t 25, phần II, tr 499
(4) Ở nước ta mới chỉ quy định quyền sở hữu và quyền sử dụng ruộng đất, chưa đề cập đến quyền chiếm hữu thực tế và lợi ích cụ thể của từng quyền nói trên. Riêng với đất ở, trên thực tế, chủ sở hữu nắm cả quyền sở hữu pháp lý, quyền chiếm hữu thực tế và quyền sử dụng vô thời hạn. Bởi vậy, giá cả đất ở cao hơn giá chuyển nhượng quyền chiếm hữu và quyền sử dụng đất canh tác
Thông báo Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Ðảng khóa XI  (11/07/2011)
Với quyết tâm cao và niềm tin mới, nhất định chúng ta sẽ vượt qua mọi khó khăn, thách thức, giành nhiều thành tích mới to lớn hơn nữa  (11/07/2011)
Mục lục Tạp chí Cộng sản số 825 (7-2011)  (10/07/2011)
Hà Nội dành 56 tỉ đồng tặng quà cho thương binh  (09/07/2011)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm