Hậu Giang tập trung đầu tư phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới

Huỳnh Minh Chắc Ủy viên Trung ương Đảng, Bí thư Tỉnh ủy Hậu Giang
14:13, ngày 11-07-2011
TCCS - Với 80% dân số làm nông nghiệp, những năm qua, Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh Hậu Giang luôn xác định nông nghiệp, nông dân, nông thôn là vấn đề đặc biệt quan trọng đối với sự ổn định và phát triển của tỉnh. Thông qua nhiều chủ trương, chính sách hợp lý của Đảng và Nhà nước cùng sự nỗ lực của các tầng lớp nhân dân, Hậu Giang đã đạt được nhiều thành tựu trong phát triển  nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, nâng cao đời sống nông dân.

Trong nhiệm kỳ qua, nông nghiệp Hậu Giang tiếp tục phát triển với tốc độ khá, công tác chuyển giao và ứng dụng khoa học - công nghệ trong sản xuất ngày càng phát huy hiệu quả; nông sản hàng hóa ngày càng đa dạng với năng suất, chất lượng được nâng lên; tỷ lệ cơ giới hóa ở các khâu sản xuất trong ngành trồng trọt, chăn nuôi, nuôi trồng thủy sản ngày càng tăng; tỷ lệ lao động khu vực nông thôn trong 5 năm qua đã giảm 13,5%. Kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn được quan tâm đầu tư, nâng cấp, tạo điều kiện lưu thông hàng hóa nông sản và tiêu dùng; mối quan hệ giữa nông nghiệp - công nghiệp chế biến - dịch vụ bước đầu đã hình thành và hỗ trợ lẫn nhau; thu nhập của người dân có bước cải thiện (thu nhập khu vực nông thôn năm 2010 đạt khoảng 10,34 triệu đồng/ người/năm)...

Đa dạng hóa vật nuôi, cây trồng

Trong sản xuất nông nghiệp, tỉnh đã tập trung chỉ đạo phát triển “5 cây” gồm  lúa, mía, cây ăn trái, rau màu, khóm và “5 con” gồm trâu, bò, lợn, gia cầm, thủy sản theo hướng tăng nhanh về số lượng, bảo đảo chất lượng.

Lúa là cây trồng chính với diện tích gieo trồng hằng năm trên 191.000 ha,  năng suất bình quân khoảng 5,4 tấn/ha/vụ, sản lượng hằng năm đều đạt trên 1 triệu tấn. Việc ứng dụng Chương trình IPM (quản lý dịch hại tổng hợp), “3 giảm, 3 tăng” (giảm lượng giống gieo sạ - giảm lượng thuốc bảo vệ thực vật - giảm lượng phân đạm; tăng năng suất lúa - tăng chất lượng lúa gạo - tăng hiệu quả kinh tế), “5 giảm, 1 phải” (giảm lượng giống gieo sạ -  giảm lượng thuốc bảo vệ thực vật - giảm lượng phân đạm - giảm lượng nước tưới - giảm thất thoát sau thu hoạch và phải sử dụng giống lúa xác nhận) trong sản xuất lúa được đa số nông dân tham gia thực hiện, góp phần tăng năng suất, chất lượng lúa gạo và lợi tức cho nông dân. Trong canh tác lúa, các khâu làm đất, bơm tưới, suốt lúa được thực hiện bằng cơ giới trên 98%;  một số khâu khác, như gieo hạt, thu hoạch, phơi sấy cũng ngày càng tăng dần tỷ lệ cơ giới hóa,  nhiều diện tích canh tác đã được tưới tiêu chủ động.

Mía là cây có lợi thế so sánh rất lớn của tỉnh trong vùng đồng bằng sông Cửu Long. Diện tích trồng mía năm 2010 là 13.173 ha, trong đó có 10.300 ha vùng mía nguyên liệu đã được đầu tư kết cấu hạ tầng. Năng suất, chất lượng mía và trữ lượng đường cao, nhiều giống mía mới được trồng phổ biến, như ROC16, ROC10, ROC22, QĐ11, VN84-4137, K84-200, DLM24... đã giúp chủ động nguồn nguyên liệu cung cấp cho 3 nhà máy đường trên địa bàn hoạt động.

Diện tích rau màu, cây ăn trái không ngừng tăng lên, chất lượng sản phẩm ngày càng được cải thiện. Tốc độ tăng trưởng diện tích các loại rau, màu giai đoạn 2005 - 2010 là 2,5%. Đến nay, trên địa bàn tỉnh đã hình thành vùng chuyên canh cây ăn trái, như bưởi Năm Roi Phú Hữu, cam sành Ngã Bảy, quít đường Hậu Giang. Trong giai đoạn 2005 - 2010, tổng diện tích cây ăn trái bình quân tăng 0,52%/năm.

Chăn nuôi cũng là thế mạnh của tỉnh. Những năm gần đây tình hình dịch bệnh trên gia súc, gia cầm có diễn ra, nhưng đều được phòng trừ và khống chế có hiệu quả. Đàn gia cầm, thủy cầm tăng bình quân hằng năm trên 20%, giá trị sản xuất ngành chăn nuôi tăng bình quân trên 6%/năm.

Một thế mạnh khác của Hậu Giang là thủy sản. Đến nay toàn tỉnh có trên 6.440 ha nuôi trồng thủy sản, tăng bình quân 12,7%/năm. Diện tích mặt nước nuôi thủy sản đến cuối năm 2009 là 7.508 ha, sản lượng đạt 44.000 tấn và năm 2010 tăng trên 20% so năm 2009. Đã có nhiều mô hình nuôi thủy sản an toàn, chất lượng theo tiêu chuẩn quốc tế SQF 1000CM, hình thành vùng nuôi tập trung như vùng nuôi cá tra ở Châu Thành, thị xã Ngã Bảy; đang tiếp tục phát triển thương hiệu cá rô, cá thát lát Hậu Giang.

Tạo tiền đề xây dựng nông thôn mới

Những năm qua, giao thông - thủy lợi phục vụ nông nghiệp, nông thôn phát triển đáng kể. Chiến dịch giao thông - thủy lợi mùa khô hằng năm góp phần tăng diện tích canh tác, bảo đảm tưới tiêu cho 92% diện tích canh tác lúa, mía, cây ăn trái, rau màu và chủ động một bước trong việc kiểm soát, khắc phục xâm nhập mặn. Trong phát triển giao thông nông thôn, đến nay nhiều tuyến đường được nâng cấp sửa chữa, xây dựng mới nối huyện liền xã, xã liền xã, ấp liền ấp, tạo điều kiện thuận lợi cho người dân đi lại, giao lưu, trao đổi hàng hóa, góp phần phát triển kinh tế - xã hội, nhất là vùng nông thôn.

Từ ngày thành lập tỉnh đến nay, Hậu Giang đã tập trung quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế - xã hội trên cơ sở ưu tiên đầu tư phát triển nông nghiệp, nông thôn. Chủ trương này được thể hiện trong Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh khóa XI, nhiệm kỳ 2005 - 2010, là xây dựng, hoàn thành 2 xã nông thôn mới đạt 13 tiêu chí, để từ đó làm tiền đề, rút kinh nghiệm cho quá trình lãnh đạo, chỉ đạo các địa phương xây dựng và phát triển nông thôn thời gian tới.

Tỉnh đã xây dựng 13 tiêu chí và triển khai áp dụng cho 2 xã Vĩnh Viễn, (huyện Long Mỹ) và xã Vị Thanh (huyện Vị Thủy). Năm 2010, tỉnh đã tổ chức đánh giá, công nhận 03 xã nông thôn mới theo 13 tiêu chí của tỉnh gồm: xã Vĩnh Viễn, xã Vị Thanh và xã Tân Tiến (thành phố Vị Thanh). Trong đó, xã Vĩnh Viễn là đơn vị đầu tiên đạt chuẩn xã nông thôn mới của khu vực đồng bằng sông Cửu Long.

Về cơ bản, bộ mặt nông thôn của các xã này đều có bước phát triển cao, đặc biệt ý thức về xây dựng nông thôn mới theo hướng văn minh, hiện đại trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân được nâng lên. Đây là tiền đề quan trọng để tỉnh triển khai thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020. Trên cơ sở rà soát hiện trạng, so sánh với nội dung của 19 tiêu chí nông thôn mới theo Quyết định số 491/QĐ-TTg, ngày 16-4-2009, của Thủ tướng Chính phủ về việc ban hành Bộ tiêu chí quốc gia về nông thôn mới, tỉnh đã quyết định thành lập Ban Chỉ đạo thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới và xây dựng Kế hoạch triển khai thực hiện trên địa bàn tỉnh. Trong 19 tiêu chí nông thôn mới, có 13 tiêu chí Hậu Giang thực hiện được trên 80%; còn 11 tiêu chí Hậu Giang hoàn thành trên dưới 50%.

Những bất cập

Mặc dù đã đạt được những thành tựu đáng kể trong sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn, nhưng trên thực tế, Hậu Giang vẫn còn nhiều hạn chế cần sớm được khắc phục, đó là:

- Đầu tư thấp và không đồng bộ ở vùng nông thôn. Thời gian qua, mặc dù tỉnh đã tranh thủ và kêu gọi nhiều nguồn đầu tư trong và ngoài nước nhưng đối với vùng nông thôn, nhất là cho sản xuất nông nghiệp còn yếu và thiếu. Vì thế, sản xuất nông nghiệp, nhìn chung, chưa được bảo đảm về điều kiện hạ tầng kinh tế - kỹ thuật; công nghệ sản xuất còn lạc hậu, giá thành cao, tỷ lệ hao hụt sau thu hoạch và bảo quản còn lớn. Bên cạnh đó, các quy định pháp luật, cơ chế, chính sách hỗ trợ nông nghiệp còn nhiều bất cập, chưa hấp dẫn các doanh nghiệp đầu tư phát triển sản xuất và chế biến nông sản.

- Yếu kém về sử dụng tài nguyên nông nghiệp theo lợi thế tiểu vùng sinh thái của tỉnh. Dù tỉnh có quan tâm quy hoạch, nhưng khả năng đầu tư và phát triển quy hoạch còn hạn chế, dẫn đến khó khai thác tổng hợp sản xuất nông nghiệp theo lợi thế so sánh từng tiểu vùng của tỉnh. Nông dân phải chịu nhiều áp lực vì thị trường không ổn định và thiếu đầu tư theo lợi thế so sánh trong sản xuất.

- Sản xuất nhỏ lẻ, không đồng bộ và khó kết nối với thị trường. Do yếu kém về quy hoạch, triển khai quy hoạch theo lợi thế so sánh từng huyện, xã, sản xuất nông hộ nhỏ lẻ dẫn đến khó đầu tư trọng điểm để hỗ trợ nông dân về tổ chức sản xuất, chuyển giao công nghệ, cung cấp tín dụng và kết nối họ với thị trường.  Khó tổ chức nông dân kết nối với thị trường cũng còn do nhiều khó khăn trong việc tập trung vùng nguyên liệu để kêu gọi đầu tư chế biến nông, thủy sản.

 Do những hạn chế nêu trên nên sản xuất cây trồng và vật nuôi tuy đa dạng nhưng không bền vững, thiếu ổn định trong quan hệ cung - cầu, sản phẩm ít hàm lượng chất xám và dịch vụ hỗ trợ kém. Những kết quả đạt được trong sản xuất nông nghiệp và xây dựng, phát triển nông thôn chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của tỉnh. Nông nghiệp và nông thôn phát triển còn thiếu quy hoạch, ngành nghề sản xuất và vùng sản xuất hàng hóa được hình thành nhưng chậm mở rộng; kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội chưa đáp ứng tốt nhu cầu phát triển. Hiệu quả khai thác và sử dụng các nguồn lực còn nhiều hạn chế; các chính sách để thúc đẩy phát triển nông nghiệp, nông thôn và hỗ trợ nông dân chưa kịp thời; công nghiệp và dịch vụ nông nghiệp, kinh tế nông thôn phát triển chậm.

Hướng tới nền sản xuất nông nghiệp toàn diện, hiệu quả, bền vững và xây dựng nông thôn mới

Thực hiện Nghị quyết số 26-NQ/TW, ngày 05-8-2008, của Ban Chấp hành Trung ương (khóa X) về Nông nghiệp, nông dân và nông thôn; các quyết định của Thủ tướng Chính phủ; văn bản của các bộ, ngành Trung ương về xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2010 - 2020; Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hậu Giang lần thứ XII (nhiệm kỳ 2010 - 2015); Quy hoạch nông nghiệp, nông thôn Hậu Giang đến năm 2020..., tỉnh đã xây dựng “Chiến lược phát triển nông thôn tỉnh Hậu Giang giai đoạn 2011 - 2015, tầm nhìn đến năm 2020”.

Theo chiến lược này, phương hướng phát triển nông thôn tỉnh Hậu Giang giai đoạn 2011 - 2015, tầm nhìn đến năm 2020 là “Hướng tới một nền sản xuất nông nghiệp toàn diện, hiệu quả và bền vững nhằm phát huy lợi thế so sánh, tăng năng suất, tăng chất lượng, tăng giá trị gia tăng, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ môi trường, góp phần quan trọng bảo đảm an ninh lương thực quốc gia. Chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu kinh tế nông nghiệp và lao động nông thôn; nâng cao chất lượng quy hoạch và quản lý quy hoạch; đẩy mạnh đầu tư, xây dựng nông thôn mới đạt tiêu chí quốc gia, đến năm 2015 có ít nhất 20%, đến năm 2020 có ít nhất 50% xã trong tỉnh đạt tiêu chí quốc gia xã nông thôn mới”.

Tỉnh xác định có 3 cơ hội lớn trong sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn những năm tới. Cụ thể là:

- Cơ hội mở rộng thị trường. Hậu Giang nằm ở trung tâm của tiểu vùng tây nam sông Hậu, có nhiều đường sông và đường bộ đi qua. Đây là lợi thế mở rộng thị trường “đầu ra” và “đầu vào” cho các loại cây, con mũi nhọn của tỉnh. Trong xu thế “tăng cường liên kết vùng”, Hậu Giang sẽ có nhiều cơ hội thị trường để phát triển thương mại và dịch vụ nông thôn trong thế liên kết với thành phố Cần Thơ và các tỉnh Kiên Giang, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Cà Mau. 

- Cơ hội kêu gọi đầu tư và phát triển công nghệ. Thời gian qua, tỉnh có nhiều chính sách minh bạch, ổn định, tạo sự quan tâm và thu hút nhà đầu tư, nhất là các doanh nghiệp tư nhân tham gia sản xuất và chế biến nông, thủy sản. Việc tăng cường thu hút đầu tư mở ra triển vọng đẩy mạnh chuyển giao công nghệ liên quan đến cung ứng “đầu vào” và thị trường “đầu ra” sản phẩm “5 cây” và “5 con” có lợi thế so sánh của tỉnh.  

- Cơ hội về đầu tư và phát triển nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Tỉnh xác định “5 cây”, “5 con” trong đầu tư phát triển nông nghiệp, thúc đẩy xây dựng xã nông thôn mới và đào tạo nghề là cơ hội rất lớn để nâng cao đời sống người dân nông thôn trong tương lai. Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh Hậu Giang lần thứ XII đã xác định ưu tiên đầu tư vào nông thôn, xem đây là cơ hội rất lớn để phát triển nông nghiệp, nông thôn và nâng cao mức sống nông dân. 

Theo Nghị quyết, trong 5 năm tới,  nông nghiệp sẽ phát triển theo hướng bền vững, đạt mức tăng trưởng bình quân hằng năm ở khu vực I khoảng 5% - 5,5%; hình thành một số vùng sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng, hiệu quả và khả năng cạnh tranh cao; cơ cấu khu vực I giảm xuống còn 22% - 23%; doanh thu bình quân 70 triệu - 80 triệu đồng/ha/năm, lợi nhuận trên 30%; tăng thu nhập bình quân đầu người ở nông thôn lên 15 triệu đồng/năm (gấp 1,5 lần so với năm 2010); phấn đấu kim ngạch xuất khẩu các mặt hàng nông, lâm, thủy sản đạt từ 350 triệu USD/năm trở lên.

Xây dựng hoàn thành 20% xã nông thôn mới (11 - 12 xã) đạt 19/19 tiêu chí; có 17 xã đạt 13/19 tiêu chí; có 20 xã đạt 10/19 tiêu chí; có 7 xã đạt 8/19 tiêu chí nông thôn mới với kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội từng bước hiện đại, gắn kết quy hoạch phát triển đô thị; cơ cấu kinh tế và các hình thức tổ chức sản xuất hợp lý, tạo sự chuyển biến tích cực trong cơ cấu lao động; xã hội nông thôn dân chủ, ổn định, giàu bản sắc văn hóa dân tộc, môi trường sinh thái được bảo vệ, an ninh trật tự được giữ vững, đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được cải thiện.

 Nâng cao trình độ năng lực cán bộ, công chức và viên chức ở nông thôn đạt chuẩn, tăng cường cán bộ kỹ thuật, nhất là lực lượng kỹ sư nông nghiệp về nông thôn nhằm đáp ứng mục tiêu, nhiệm vụ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn.

Để thực hiện thành công những nhiệm vụ trên, trong những năm tới, tỉnh chọn khâu đột phá là “Liên kết 4 nhà: nhà khoa học - nhà nông - nhà doanh nghiệp - Nhà nước” làm nền tảng vững chắc cho phát triển nông nghiệp.

Một số giải pháp cần tập trung thực hiện

Một là, chuyển dịch nhanh cơ cấu nông nghiệp và nông thôn theo hướng hiện đại, tập trung đầu tư cho nông thôn, đặc biệt chú ý xây dựng xã nông thôn mới, trong đó chú ý các vấn đề như cơ khí hóa, điện khí hóa và thủy lợi hóa. Làm tốt công tác khuyến nông để đưa nhanh tiến bộ kỹ thuật, công nghệ sinh học vào sản xuất nông nghiệp; thực hiện phát triển các hình thức hợp tác kinh tế sản xuất, trang trại sản xuất với quy mô lớn.

Hai là, cải thiện và nâng cấp hệ thống kết cấu hạ tầng, tích cực xây dựng các mô hình sản xuất mới để từng bước nâng cao đời sống nông dân. Tiếp tục đầu tư, xây dựng hoàn chỉnh hệ thống thủy lợi cho quy hoạch vùng lúa xuất khẩu, vùng cây ăn trái tập trung và vùng nuôi thủy sản quy mô lớn; áp dụng khoa học - kỹ thuật, gắn với bảo vệ môi trường, giảm dịch bệnh, tăng chất lượng hàng hóa.

Ba là, chuyển dịch mạnh mẽ cơ cấu nông nghiệp theo hướng giảm tỷ trọng trồng trọt, tăng tỷ trọng chăn nuôi, thủy sản và dịch vụ nông nghiệp; tăng tỷ trọng thủy sản theo hướng thâm canh, an toàn chất lượng. Quy hoạch vùng nuôi thủy sản, xây dựng mô hình chăn nuôi gia cầm nông hộ và trang trại theo hướng bảo đảm an toàn, không bị dịch bệnh.

Bốn là, chuyển dịch cơ cấu lao động, tăng mức sống của người dân, giảm tỷ lệ hộ nghèo trong nông thôn; từng bước đào tạo, nâng cao nghề cho lao động nông thôn; chuyển dịch hợp lý lao động nông nghiệp sang phi nông nghiệp... Tạo mối liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân để chủ động nguồn hàng, ổn định chất lượng sản phẩm, bảo đảm tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm.

Năm là, tập trung khai thác tốt tiềm năng nông nghiệp, đặc biệt chú trọng chất lượng theo hướng GAP (sản xuất an toàn), gắn sản xuất với tiêu thụ để tạo sự ổn định cho nông dân. Tiếp tục thực hiện hoàn chỉnh vùng sản xuất chuyên canh; phát triển diện tích nuôi thủy sản theo quy hoạch, chú ý các đối tượng nuôi phù hợp với điều kiện.

Sáu là, đẩy mạnh công tác khuyến nông, chuyển giao tiến bộ khoa học - kỹ thuật, công nghệ mới, công nghệ sinh học. Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu ngành, cơ cấu cây trồng, vật nuôi, tạo ra sản phẩm hàng hóa chất lượng cao; hình thành các vùng chuyên canh ứng dụng công nghệ cao, sản xuất lúa gạo, mở rộng vùng chuyên màu, trồng rau sạch, cây công nghiệp và vùng cây ăn quả; vùng nuôi trồng thủy sản; phát triển chăn nuôi theo mô hình trang trại, gia trại; xây dựng nhiều cánh đồng mẫu theo hướng ứng dụng công nghệ cao.

Bảy là, tăng cường công tác chỉ đạo trên cơ sở những chủ trương, định hướng của tỉnh; đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền phổ biến về hướng dẫn cơ cấu giống cây trồng, thời vụ, những biện pháp kỹ thuật thâm canh, các giống mới, diễn biến thời tiết...; bố trí cơ cấu giống cây trồng và thời vụ hợp lý, phù hợp với điều kiện thực tế của  địa phương; làm tốt công tác dịch vụ phục vụ sản xuất nông nghiệp.

Tám là, tăng cường đầu tư kết cấu hạ tầng nông thôn, đặc biệt là giao thông, thủy lợi, điện, nước sạch; sớm hoàn tất các tuyến giao thông trọng điểm để nối mạng đường bộ với hệ thống giao thông nông thôn theo tiêu chí mới tạo điều kiện phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh khu vực nông thôn theo tiêu chí nông thôn mới. Đồng thời lưu ý việc đầu tư kết cấu hạ tầng đều phải tính đến tác động của biến đổi khí hậu, nước biển dâng trong tương lai./.