Sự tan rã của mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu là một thực tế đau xót, nhưng nó không hề làm giảm mục đích, ý nghĩa nhân văn cao cả của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga - cuộc cách mạng vĩ đại nhằm giải phóng con người khỏi bất công, áp bức, mở ra một thời đại mới trong tiến trình phát triển của loài người. Sự cố đó còn mang lại cho chúng ta những bài học vô cùng quý báu trên con đường xây dựng, phát triển đất nước, tiếp tục thực hiện những mục tiêu, lý tưởng của Cách mạng Tháng Mười vĩ đại.

Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại cách đây 90 năm đã mở đường cho sự ra đời một chế độ xã hội mới trên thế giới, chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa, đặt ra một "cột mốc" cho một thời đại mới trong lịch sử nhân loại, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Sự tan rã của mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu là một bước thụt lùi đau đớn trong cuộc đấu tranh giải phóng con người, thực hiện giấc mơ ngàn đời của nhân loại về một cuộc sống tự do, toàn thiện. Tuy nhiên, nó không thể làm suy giảm ý nghĩa lịch sử to lớn của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại. Những bài học rút ra từ sự sụp đổ của mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sẽ giúp cho các nước đang xây dựng chủ nghĩa xã hội tránh được vết xe đổ, nhận thức rõ hơn vị trí, hoàn cảnh của mình, vạch ra con đường và sử dụng những phương tiện hợp lý, cần thiết nhằm thực hiện thành công những mục tiêu cách mạng to lớn, cao cả.

Thời đại ngày nay vẫn đang là thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản đi lên chủ nghĩa xã hội. Đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tất yếu nhưng có thể bằng nhiều hình thức, biện pháp khác nhau, thích hợp với hoàn cảnh, điều kiện lịch sử cụ thể. Hiện nay, sự phát triển mạnh mẽ của xã hội Trung Quốc và những thành công to lớn của Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới là minh chứng thực tiễn cho sự nhận định của V.I. Lê-nin: "Chừng nào chúng ta chưa thực hiện được chủ nghĩa cộng sản toàn vẹn thì không một hình thức nào là vĩnh viễn cả. Chúng ta không cho là chúng ta đã biết rõ con đường chính xác. Nhưng chắc chắn và nhất định chúng ta sẽ đi tới chủ nghĩa cộng sản"[1].

Trước những biến động, khủng hoảng và đổ vỡ của mô hình chủ nghĩa xã hội hiện thực ở Đông Âu và Liên Xô, trước những khó khăn của tình hình kinh tế - xã hội trong nước, nhưng dưới ngọn cờ của Cách mạng Tháng Mười vĩ đại, Đảng ta vẫn vững vàng bản lĩnh chính trị, tin tưởng vào tương lai của chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy, dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng đã vượt qua biết bao gian nan, thử thách để đưa công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa tiến lên một cách vững chắc. Trong hoàn cảnh quốc tế hiện nay, khi nước ta đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), hòa nhập đầy đủ vào nền kinh tế thế giới, những bài học của Cách mạng Tháng Mười và con đường lịch sử của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa Liên Xô và Đông Âu càng trở nên có ý nghĩa thiết thực đối với cách mạng Việt Nam, nhất là đối với công tác xây dựng Đảng cầm quyền - một yếu tố có ý nghĩa quyết định thành bại của công cuộc xây dựng phát triển đất nước, thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Những bài học có thể rút ra từ thực tế lịch sử ấy là gì?

1 - Đảng phải kiên định với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời phải tôn trọng thực tiễn, biết vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào những hoàn cảnh lịch sử cụ thể

Sự kiện Liên xô và Đông Âu sụp đổ là thực tế đau xót. Nhưng Cách mạng Tháng Mười đâu phải là "sự lầm lạc lịch sử" như luận điệu sai trái của những kẻ cố tình xuyên tạc và phủ nhận. Những khiếm khuyết, sai lầm trong thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội, thậm chí cả những biến dạng, lệch lạc của chủ nghĩa xã hội, có thể làm đổ vỡ một thể chế, làm tan rã một đảng, một nhà nước ở những thời điểm và tình huống mang tính bi kịch, nhưng không vì thế mà chiều hướng lịch sử có thể thay đổi. Trong trường hợp thất bại của mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, không thể chối cãi được rằng, nguyên nhân và trách nhiệm đầu tiên là thuộc về các đảng cộng sản và công tác xây dựng đảng. Thể hiện trước hết có thể nhận ra là việc không trung thành, kiên định với chủ nghĩa Mác - Lê-nin theo hai chiều hướng: một mặt, xa rời mục tiêu cách mạng và những nguyên tắc căn bản trong xây dựng và hoạt động của Đảng; mặt khác, vận dụng một cách máy móc, giáo điều những nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, chủ quan, nóng vội, không đếm xỉa đến thực tiễn cũng như những yêu cầu cuộc sống đang đặt ra.

Ngày nay, khi đã có độ lùi lịch sử nhất định để nhìn lại công cuộc "cải tổ" ở Liên Xô thời kỳ những năm 80 của thế kỷ XX, có thể thấy, bộ phận lãnh đạo tối cao của Đảng đã xuất phát từ những mong muốn chủ quan để đề ra và thực hiện những chủ trương, biện pháp nhằm cứu vãn tình hình khủng hoảng. Đó là công cuộc "cải tổ" từ trên xuống, từ những ngôn từ nặng chất lý luận giáo điều, những triết lý thuần túy lý thuyết, không đáp ứng những đòi hỏi cụ thể, thực tế của các tầng lớp nhân dân. Có thể so sánh cuộc "cải tổ" ở Liên Xô như việc xây nhà từ nóc xây xuống. Những sai lầm ấy là nguyên nhân dẫn Đảng tới sự suy yếu, mất sức chiến đấu, mất uy tín trong xã hội, chia rẽ nội bộ, không đưa ra được những đường lối, chủ trương đúng đắn và kết cục là tự đánh mất vai trò lãnh đạo xã hội.

Từ bài học ấy cũng như từ chính thực tiễn công cuộc đổi mới của đất nước ta cho thấy, chỉ có trung thành với lý tưởng và mục tiêu của Cách mạng Tháng Mười, của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, của chủ nghĩa xã hội khoa học, Đảng mới có thể đoàn kết, xây dựng đội ngũ vững mạnh, giữ vững vai trò lãnh đạo xã hội, thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.

Tuy nhiên, một đảng trung thành với chủ nghĩa Mác - Lê-nin phải bao hàm sự trung thành đồng thời với mục tiêu cách mạng mà học thuyết khoa học đó đã vạch ra và trung thành với phương pháp khoa học làm nên bản chất của học thuyết đó. Trên cơ sở sự phân tích lịch sử một cách biện chứng, sâu sắc, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lê-nin đã chỉ ra rằng, xã hội loài người tất yếu đi tới chủ nghĩa cộng sản. Điều này không phụ thuộc vào mong muốn hay ý chí của một hay nhiều người nào đó, mà là quy luật vận động tất yếu của lịch sử. Song, con đường đi tới chủ nghĩa cộng sản gắn liền với cuộc cách mạng về sự phát triển toàn diện của con người cùng các mối quan hệ xã hội và xây dựng các yếu tố nhằm bảo đảm những điều kiện vật chất cho sự tồn tại và phát triển của chế độ đó. Đó là một cuộc cách mạng triệt để nhất, khoa học nhất, đòi hỏi sự sáng tạo lớn nhất trong lịch sử loài người từ trước tới nay.

Chủ nghĩa Mác - Lê-nin hình thành trên cơ sở phương pháp khoa học và đòi hỏi ứng xử với nó một cách khoa học. C.Mác và Ph.Ăng-ghen đã nhiều lần nhắc lại rằng, học thuyết của mình chỉ là "những nguyên lý tổng quát" và do đó "bất cứ ở đâu và bất cứ lúc nào, việc áp dụng những nguyên lý đó cũng phải tùy theo hoàn cảnh lịch sử đương thời"[2]. V.I. Lê-nin đã nhiều lần nhắc đi, nhắc lại rằng, lý luận của chủ nghĩa Mác là kim chỉ nam cho hành động cách mạng, không phải là giáo điều, nó mang tính sáng tạo và luôn luôn cần phải được bổ sung bằng sự tổng kết những bài học từ thực tiễn cách mạng. Chính V.I. Lê-nin cũng là người đã tiếp nhận và vận dụng học thuyết cách mạng của C. Mác, Ph. Ăng-ghen vào điều kiện lịch sử cụ thể của nước Nga một cách đầy sáng tạo, mà tiêu biểu nhất là nhận thức mới về thời cơ và điều kiện nổ ra cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa.

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhấn mạnh nguyên tắc "lý luận phải liên hệ với thực tế". Người nói: "Thống nhất giữa lý luận và thực tiễn là một nguyên tắc căn bản của chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Thực tiễn không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông"[3]. Người nhấn mạnh rằng, học tập, tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lê-nin là “học tập tinh thần của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, học tập lập trường, quan điểm và phương pháp của chủ nghĩa Mác - Lê-nin" để vận dụng vào việc "phân tích và giải quyết các vấn đề cụ thể của cách mạng nước ta, cho hợp với điều kiện đặc biệt của nước ta"[4]. Ngay từ những năm tháng đầu tiên đón nhận học thuyết cách mạng Mác - Lê-nin, tổ chức ra Đảng Cộng sản để tiến hành cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, giành độc lập cho đất nước, tự do cho nhân dân, Hồ Chí Minh đã nhận thức và hành động nhất quán theo tinh thần ấy. Người đã vận dụng học thuyết cách mạng xã hội chủ nghĩa vào tình hình cụ thể của Việt Nam, một nước thuộc địa với nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu, với đặc điểm hình thành dân tộc gắn liền với cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên khắc nghiệt và cuộc đấu tranh kiên cường chống ngoại xâm, bảo vệ không gian sinh tồn của cộng đồng. Trong điều kiện ấy, quan điểm cơ bản, nhất quán của Hồ Chí Minh thể hiện ngay từ những văn kiện đầu tiên của Đảng là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội nhằm thực hiện mục tiêu sống còn là đánh đổ đế quốc, thực dân, "Làm cho nước An Nam được độc lập"[5].

Những thành tựu to lớn của đất nước ta giành được trong công cuộc đổi mới dưới sự lãnh đạo của Đảng chính là một bằng chứng đầy sức thuyết phục về phương pháp khoa học, quan điểm "lý luận gắn bó với thực tế". Có thể nói rằng, những thành tựu đó không tách rời sự đổi mới tư duy xuất phát từ những điều kiện kinh tế, xã hội cụ thể của đất nước để từ bỏ dứt khoát cơ chế kinh tế kế hoạch hóa tập trung, quan liêu, bao cấp sang xây dựng nền kinh tế thị trường nhiều thành phần, định hướng xã hội chủ nghĩa, mở ra những khả năng to lớn trong việc khai thác các tiềm năng trong xã hội để phát triển kinh tế, mở rộng sản xuất, cải thiện đời sống nhân dân.

Ngày nay, khi nước ta đã gia nhập Tổ chức Thương mại thế giới, nền kinh tế nước ta hội nhập đầy đủ vào hệ thống kinh tế toàn cầu, quan hệ chính trị, văn hóa, khoa học của nhà nước ta ngày càng mở rộng, đời sống văn hóa tinh thần và trình độ nhận thức của người dân ngày càng được nâng lên. Điều kiện đó đòi hỏi Đảng ta càng phải kiên định mục tiêu và con đường cách mạng đã chọn, trung thành với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và những nguyên tắc trong xây dựng và hoạt động của Đảng; đồng thời phải luôn luôn đề phòng chủ nghĩa giáo điều, cơ hội, luôn luôn gắn bó lý luận với thực tiễn, xuất phát từ những yêu cầu của thực tiễn để phân tích, vận dụng sáng tạo những nguyên lý khoa học của chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào việc giải quyết những nhiệm vụ chính trị.

2 - Đảng phải liên hệ mật thiết với dân, lấy dân làm "gốc"

"Chở thuyền là dân và lật thuyền cũng là dân" - bài học lịch sử đó mang tính phổ quát, không phải chỉ của riêng dân tộc ta. Trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ nghĩa, nhân dân không chỉ là quần chúng cách mạng, lực lượng thực hiện các nhiệm vụ chính trị để làm nên lịch sử, hơn thế, nhân dân chính là mục đích phát triển của chế độ. Nói cách khác, mục đích cuối cùng, quyết định của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa là nhằm phục vụ cho sự phát triển toàn diện của nhân dân trong cộng đồng dân tộc - của con người trong xã hội. Vì thế, sự liên hệ giữa Đảng với dân là một trong những điều kiện quyết định sự tồn tại và vai trò chính trị thực tế của Đảng trong xã hội.

Đảng liên hệ mật thiết với dân, lấy dân làm gốc thể hiện ở những bình diện, cấp độ khác nhau như: cán bộ, đảng viên sống gần gũi, chia sẻ với dân; Đảng thấu hiểu tâm tư, nguyện vọng của dân; các đường lối, chủ trương của Đảng bảo vệ, phát triển những lợi ích toàn diện, hợp lý của dân; dân tin tưởng, tự giác tham gia thực hiện các nhiệm vụ chính trị do Đảng đề ra; dân trở thành hệ thống giám sát, bảo vệ Đảng, phát hiện, cảnh báo và lên án những biểu hiện sai trái trong bộ máy Đảng, Nhà nước; Đảng phải trở thành người đại diện cho quyền lợi, quyền lực của giai cấp và dân tộc. Đó cũng chính là những điều kiện rất quan trọng bảo đảm sức mạnh cũng như khả năng của Đảng trong việc đưa ra và thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ xây dựng và phát triển đất nước, bảo vệ sự bền vững của chế độ.

Trong những biến cố ở Liên Xô và Đông Âu trước đây có thể thấy một hiện tượng rất đáng suy nghĩ là người dân quay lưng lại với Đảng, không quan tâm hoặc là dửng dưng trước những biến cố dẫn đến sự sụp đổ của chế độ mà chính cha ông họ đã dựng nên, chính bản thân họ đã đóng góp công sức để xây dựng. Thậm chí, một bộ phận công nhân đã trực tiếp tham gia vào những cuộc đình công, biểu tình, gây nên tình trạng mất trật tự, rối loạn trong xã hội, chống lại Đảng và chính quyền Xô-viết. Nếu đem so sánh tình trạng này với không khí cách mạng sôi sục của các tầng lớp công - nông - binh trong thời kỳ Cách mạng Tháng Mười, trong cuộc nội chiến và trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại có thể thấy một sự tương phản tuyệt đối. Vậy, nguyên nhân nào dẫn đến sự tương phản tuyệt đối này?

Có thể tìm thấy nguyên nhân sự tương phản này trong lời cảnh báo của V.I. Lê-nin về nguy cơ quan liêu hóa xuất hiện trong quá trình Đảng cầm quyền, nguy cơ về sự xa rời nhân dân của Đảng. Người đã yêu cầu rất nghiêm khắc: "Cần phải dùng nhiều hình thức và phương pháp kiểm tra từ dưới lên... để nhổ đi nhổ lại cho sạch hết những cỏ rác bệnh quan liêu"[6]. Rất tiếc là Đảng Cộng sản Liên Xô và các Đảng khác ở Đông Âu đã không quan tâm đúng mức đến những lời cảnh báo này. Hệ thống tổ chức của các Đảng đã dần dần trở nên hành chính hóa, hoạt động như một bộ máy quan liêu, ngày càng xa rời nhân dân. Thậm chí, ngay cả khi có dấu hiệu cụ thể về một bộ phận trong nhân dân, nhất là công nhân đã có những phản ứng tiêu cực đối với Đảng, với chế độ, họ cũng không có những chính sách, biện pháp cần thiết để cứu vãn tình hình. Có thể nói rằng, căn bệnh quan liêu, xa rời nhân dân đã làm cho Đảng đánh mất chỗ đứng trong nhân dân, cũng có nghĩa là đánh mất cơ sở quan trọng nhất cho sự tồn tại và vai trò chính trị của mình trong xã hội.

Trong lịch sử gần tám thập kỷ xây dựng, phát triển và lãnh đạo cách mạng Việt Nam, cả từ lý luận đến hành động thực tế, Đảng ta luôn luôn thấm nhuần và tuân theo nguyên tắc liên hệ mật thiết với dân, "lấy dân làm gốc". Đối với cá nhân lãnh tụ, Hồ Chủ tịch khẳng định rõ ràng rằng: "Tôi chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành"[7]. Đối với đảng viên, Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Đảng viên nào không được dân tin, dân phục, dân yêu thì chưa xứng đáng là một người đảng viên của Đảng Lao động Việt Nam"[8]. Đối với Đảng, Người chỉ ra một cách rõ ràng rằng: "Ngoài lợi ích của nhân dân, Đảng không có lợi ích nào khác"[9]. Đối với Nhà nước, Đảng ta khẳng định về mặt lý luận và đề ra các chủ trương, chính sách thực tế nhằm xây dựng: "Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân"[10]. Và xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng ta lãnh đạo nhân dân xây dựng là "xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân làm chủ"[11]. Tất cả những điều ấy đều là hợp lý, đúng đắn, có sự bảo đảm từ thực chất khoa học của hệ thống lý luận, từ tôn chỉ, mục đích đến những chủ trương chính sách cụ thể, từ cơ chế hoạt động, những hành động thực tế, và quan trọng nhất là từ những thành quả to lớn mọi mặt, từ những giá trị tinh thần, văn hóa, tri thức đến những lợi ích vật chất mà Đảng, Nhà nước đã đem lại cho giai cấp, cho nhân dân, và cho dân tộc.

Ngày nay, với những thành tựu to lớn có ý nghĩa lịch sử của hơn 20 năm thực hiện đường lối đổi mới, đất nước ta đã có thế và lực mới, đang đứng trước những thời cơ, thuận lợi lớn cho sự phát triển. Tuy nhiên, những thách thức, khó khăn cũng không nhỏ, trong đó những nguy cơ đe dọa ảnh hưởng trực tiếp, mạnh mẽ đến nhận thức, tư tưởng, sự ổn định, việc làm, thu nhập và những giá trị tinh thần, vật chất khác của các tầng lớp nhân dân. Đó là sự xuất hiện của những vụ phá sản, của nạn thất nghiệp, sự phân hóa giàu nghèo tăng lên, những tệ nạn xã hội diễn biến phức tạp, sự xâm nhập của những giá trị văn hóa tiêu cực v.v. và v.v.. Mặt khác, sự sa sút về phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên; hiện tượng tham nhũng, lãng phí lan tràn, chưa thể khắc phục triệt để; sự hạn chế về trình độ chuyên môn, về nhận thức, thái độ của không ít cán bộ trong triển khai thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, trong giao tiếp, xử lý các công việc liên quan đến người dân đang tác động tiêu cực đến uy tín của Đảng, chính quyền, đến sự ổn định của xã hội. Tình hình ấy đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải dự báo kịp thời, hoạch định và tổ chức thực hiện được những chủ trương, chính sách hợp lý, tích cực để giải quyết có hiệu quả. Mặt khác, Đảng cũng cần phải nghiên cứu, tổng kết, xây dựng những thiết chế, cơ chế hoạt động thích ứng, nhằm bảo đảm mối quan hệ chặt chẽ, hữu cơ với dân, giữ gìn sự đoàn kết trong nội bộ nhân dân, động viên được nguồn lực to lớn trong nhân dân để giải quyết các nhiệm vụ xây dựng phát triển đất nước.

3 - Bồi dưỡng, giáo dục, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên trung thành với lý tưởng cách mạng của Đảng và của dân tộc, có năng lực công tác và gương mẫu trước nhân dân

Một đảng muốn mạnh không thể không có một đội ngũ cán bộ, đảng viên mạnh, một đội ngũ đảng viên tự giác phấn đấu vì lý tưởng của Đảng, ý thức đầy đủ trách nhiệm, nghĩa vụ của mình trước Đảng. Một khi trở thành tự giác, ý thức đầy đủ về lý tưởng, về trách nhiệm, nghĩa vụ của mình, các đảng viên hoạt động trong toàn bộ bộ máy của Đảng, dù ở bất kỳ vị trí nào, sẽ trở thành những lực tác động đồng hướng, tạo nên sức mạnh tổng thành của Đảng. Đó cũng là cơ sở thực tế quyết định khả năng đoàn kết, thống nhất trong nội bộ đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhấn mạnh: "Đảng viên tốt thì Đảng mới mạnh"[12]. Đồng chí Lê Duẩn cũng đã chỉ ra rằng: sau khi đã có đường lối, chính sách đúng, vấn đề còn lại là cán bộ. Tất nhiên, nói cho cùng thì cũng chính cán bộ là người đề ra đường lối, chính sách ở phạm vi vĩ mô, cũng như những quyết định, giải pháp để cụ thể hóa và tổ chức thực hiện những đường lối, chính sách đó ở phạm vi các địa phương và các tế bào kinh tế của xã hội.

Đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng Cộng sản, nhất là trong điều kiện Đảng cầm quyền, là một công việc khó khăn, công phu và phức tạp. Nó bao gồm nhiều khâu, từ đào tạo cơ bản, cơ sở từ trong các cấp học phổ thông, các trường đào tạo chuyên nghiệp; bồi dưỡng lý luận, chính trị, lý tưởng cách mạng; rèn luyện, thử thách trong thực tế lao động, sản xuất và các hoạt động công tác chính trị, xã hội; quy hoạch, đánh giá, sử dụng cán bộ vào các vị trí công tác cụ thể v.v.. Trong các điều kiện lịch sử khác nhau, phải có những phương pháp, hình thức tương ứng, phù hợp để tổ chức công tác đào tạo, bồi dưỡng, xây dựng đội ngũ cán bộ đảng viên. Trong điều kiện chiến tranh hoặc khi Đảng chưa nắm chính quyền, đảng viên vào Đảng là do sự giác ngộ cách mạng, tự giác tham gia vào cuộc đấu tranh để giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, thực hiện lý tưởng xây dựng chế độ xã hội chủ nghĩa. Không có hoặc có rất ít sự chi phối của những lợi ích trong động cơ vào Đảng. Có nhiều, thậm chí rất nhiều điều kiện, hoàn cảnh, tình huống khó khăn, khắc nghiệt để thử thách sự trong sáng, trung thành, kiên định cũng như phẩm giá đạo đức tốt đẹp của cán bộ, đảng viên.

Trong điều kiện hòa bình xây dựng, khi Đảng nắm giữ vai trò lãnh đạo xã hội, luôn có những điều kiện, hoàn cảnh có tính hai mặt, vừa bảo đảm cho vai trò chính trị của Đảng, vừa có thể nảy sinh những động cơ vụ lợi, không trong sáng. Mặt khác, trong cơ chế vận hành chung của xã hội, chế độ đãi ngộ, phân phối lợi ích trước hết là thể hiện sự đánh giá về lao động của mỗi người, đồng thời cũng là thể hiện tính chất công bằng của chế độ xã hội với nguyên tắc "hưởng theo lao động". Như vậy, bất cứ hoạt động lao động nào của đảng viên hay công dân ngoài đảng đều có quyền được đãi ngộ xứng đáng. Nhưng cơ chế phân phối không phải lúc nào cũng chặt chẽ, công bằng và hợp lý. Những người nắm quyền lãnh đạo lại có quyền, trách nhiệm xây dựng và tổ chức thực hiện cơ chế, chế độ phân phối. Đó cũng chính là môi trường thuận lợi cho những đảng viên không trong sáng, lợi dụng những điều kiện thuận lợi, nhất là những đặc quyền có được do vị trí công tác mà Đảng phân công để thu lợi không chính đáng.

Hơn nữa, môi trường rèn luyện, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên trong điều kiện hòa bình xây dựng hiện nay đã khác hẳn so với thời chiến tranh cách mạng. Không có những hoàn cảnh khó khăn đặc biệt, những tình huống khắc nghiệt "một mất, một còn" để người cán bộ, đảng viên bộc lộ trực tiếp, rõ ràng về phẩm chất đạo đức, thái độ chính trị, tinh thần kiên định cách mạng cũng như năng lực giải quyết các nhiệm vụ công tác thực tế của mình. Tất cả những phẩm chất, năng lực của cán bộ, đảng viên trong thời bình chỉ có thể được đánh giá thông qua quá trình lao động, công tác, thể hiện ở chất lượng, hiệu quả hoàn thành những nhiệm vụ chuyên môn, ở mối quan hệ của cán bộ với nhân dân, ở những biểu hiện về trách nhiệm của người cán bộ đối với Đảng, với đất nước và chế độ. Tuy nhiên, những biểu hiện như thế không phải khi nào cũng rõ ràng, cụ thể và sự hạn định về thời gian nhiều khi không cho phép đưa ra những đánh giá chính xác. Chưa kể còn có những yếu tố, mối quan hệ phức tạp, đan xen, có thể dẫn tới sự biểu hiện không thực chất hoặc sự nhìn nhận những biểu hiện đó không thật khách quan.

Trong sự tan rã của mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu, không thể bỏ qua một nguyên nhân hàng đầu là công tác cán bộ đã không được quan tâm đầy đủ, đúng mức, không có những chính sách nhất quán, cơ chế, biện pháp hợp lý, có hiệu quả để xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là đội ngũ những người lãnh đạo cao cấp - bộ phận cán bộ có vai trò quan trọng trong việc hoạch định chính sách của Đảng và Nhà nước. Chính vì thế, việc chọn lọc, sử dụng cán bộ đã có những khâu, những việc sơ hở, không chặt chẽ, để một số kẻ cơ hội chính trị lọt vào hàng ngũ, thậm chí nắm giữ những vị trí lãnh đạo quan trọng. Sinh hoạt trong nội bộ Đảng lại vận động theo hướng quan liêu, hành chính hóa, thiếu tính chiến đấu làm cho Đảng không có khả năng loại bỏ những phần tử cơ hội, kể cả những kẻ đã phản bội lý tưởng, ra khỏi hàng ngũ của Đảng. Trong điều kiện ấy, sức mạnh của Đảng suy giảm, vai trò chính trị của Đảng bị hạ thấp. Đảng không còn đủ sự tỉnh táo cũng như khả năng thực tế để đưa ra những đường lối, chủ trương đúng đắn về kinh tế - xã hội. Trong thực tế, Đảng cũng đánh mất cả vai trò lãnh đạo đối với những lĩnh vực có ý nghĩa đặc biệt quan trọng trong đời sống xã hội, trong đó có báo chí, để cho những kẻ cơ hội, bộ phận phản bội nắm lấy một số cơ quan báo chí, đưa thông tin kích động, gây nhiễu loạn dư luận xã hội, dẫn đến khủng hoảng lòng tin của nhân dân.

Đất nước ta đang bước vào một thời kỳ phát triển mới với sự hội nhập toàn diện vào nền kinh tế quốc tế, sự mở rộng hợp tác ở tất cả các lĩnh vực với các nước, các khu vực trên thế giới. Môi trường văn hóa và các điều kiện kinh tế - xã hội trong nước đang có những biến đổi sâu sắc. Tình hình đó đòi hỏi Đảng ta phải sớm có những đường lối, chủ trương, chính sách mới, toàn diện, hợp lý về công tác cán bộ trên tất cả các bình diện của nó, từ quy hoạch, đào tạo cơ bản, bồi dưỡng thường xuyên, đánh giá, chọn lọc, sử dụng cho đến chế độ đãi ngộ, chế độ kiểm tra, giám sát, kỷ luật, đưa ra khỏi Đảng những người không đủ phẩm chất, quá yếu kém về năng lực chuyên môn v.v. và v.v.. Về nhận thức, phải coi công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên là vấn đề sống còn, quyết định đối với sự tồn tại và phát triển của đất nước, của chế độ. Cần phải đặt ra và quan tâm giải quyết vấn đề quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng viên trên mọi bình diện trong tổng thành chiến lược, sách lược xây dựng, phát triển của đất nước, từ các khâu chăm sóc trẻ em, xây dựng gia đình, giáo dục phổ thông, tổ chức, rèn luyện thanh niên, thiếu niên, giáo dục đại học và chuyên nghiệp, giáo dục, rèn luyện con người trong các tổ chức chính trị - xã hội, đến môi trường xã hội, cơ chế giám sát của nhân dân đối với cán bộ, đảng viên, các cơ chế, tiêu chí trong đánh giá, lựa chọn, sử dụng, bồi dưỡng đối với cán bộ, đảng viên... Đặc biệt, Đảng cần quan tâm đến việc chuẩn bị đội ngũ cán bộ cho việc chuyển giao thế hệ lãnh đạo, quản lý đất nước, bảo đảm sự tự giác cách mạng, quan điểm chính trị và năng lực công tác cho đội ngũ những cán bộ trẻ, những người sinh ra và lớn lên trong điều kiện hòa bình xây dựng.

4 - Đảng phải lãnh đạo nhân dân từng bước thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa, xây dựng được những điều kiện, cơ chế, nền tảng cho sự vận hành và phát triển xã hội bền vững

Cho đến nay, "sự cố" mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước Đông Âu sụp đổ vẫn đặt ra trước chúng ta những câu hỏi đầy tính thời sự. Tại sao một cường quốc vĩ đại như Liên Xô với những quan hệ, liên kết chặt chẽ về văn hóa, ngôn ngữ, dân cư, cơ sở hạ tầng kinh tế, kỹ thuật, quốc phòng, an ninh, ngoại giao, có thể sụp đổ nhanh chóng như thế? Tại sao những chế độ xã hội được xây dựng công phu, đạt được những thành tựu có tính lịch sử, tích tụ cho mình sức mạnh quân sự mạnh mẽ và mang lại cho nhân dân những lợi ích, những tiến bộ to lớn như thế mà khi sụp đổ thì nhân dân lại làm ngơ, không đứng lên bảo vệ?

Câu trả lời cho những câu hỏi đó nằm ở đâu? Câu trả lời không nằm trong mục tiêu của cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa! Không ai có thể phủ nhận tính chất tốt đẹp, nhân văn cao cả của mục tiêu xây dựng một chế độ xã hội cộng sản chủ nghĩa không có áp bức, bóc lột, không có bất công, một chế độ vì con người, mang lại các điều kiện tốt đẹp nhất cho sự phát triển toàn diện, tích cực của mỗi con người. Đó là ước vọng ngàn đời của mọi dân tộc, mọi thế hệ người và của mỗi con người trên thế gian. Chính là học thuyết khoa học mác-xít trở thành vĩ đại khi đã chỉ ra tính quy luật của xã hội loài người là tất yếu đi đến chế độ cộng sản chủ nghĩa và giai cấp công nhân đại công nghiệp là lực lượng nắm giữ sứ mệnh lãnh đạo cuộc cách mạng để tiến tới xây dựng chế độ đó. Cuộc cách mạng đó cũng là con đường đúng đắn để các dân tộc giải phóng mình khỏi áp bức, bất công.

Có thể thấy rằng, câu trả lời nằm trong từng yếu tố được hình thành và cấu thành xã hội, ở ý thức xã hội của nhân dân, ở cơ chế vận hành của xã hội mà đảng đưa ra, ở sự chuẩn bị tiếp nối và kế thừa giữa các thế hệ mà đảng chuẩn bị. Những yếu tố, mối quan hệ đó lại là kết quả của những chính sách, phương pháp không hợp lý được sử dụng nhằm xây dựng, phát triển đất nước trên các lĩnh vực đời sống và cơ sở vật chất của xã hội. Nói cách khác, trong quá trình phát triển của mình, Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu trước đây đã không tạo ra được những cơ sở, nền tảng cho sự vận động bền vững của xã hội. Đó là những cơ sở, nền tảng xã hội bảo đảm cho tuyệt đại bộ phận các thành viên của xã hội đều nhận thức được và có mong muốn, có trách nhiệm bảo vệ, duy trì sự phát triển bình thường của chế độ. Đó là những cơ sở, những điều kiện thực tế bảo đảm cho việc chuyển giao an toàn, trong trật tự các "ê-kíp", thế hệ lãnh đạo và định hướng, mô hình cũng như những tính chất quan trọng nhất của chế độ vẫn được duy trì ổn định. Những cơ sở, nền tảng này phải giữ vai trò quyết định và cùng với những phương tiện, công cụ sức mạnh khác để duy trì sự phát triển bền vững của chế độ xã hội.

Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chỉ ra rằng, vai trò lãnh đạo của Đảng là nhân tố có ý nghĩa quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam. Trải qua biết bao gian nan, thử thách trong quá trình đấu tranh cách mạng cũng như trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, Đảng ta đã được nhân dân thừa nhận, tin yêu. Đảng Cộng sản Việt Nam đã và đang là đội tiền phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiền phong của nhân dân lao động và của dân tộc Việt Nam. Đương nhiên, điều này cũng sẽ tiếp tục được khẳng định khi Đảng lãnh đạo nhân dân cả nước thực hiện thắng lợi từng bước công cuộc cách mạng xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa, tạo dựng được những điều kiện, cơ chế, nền tảng cho sự phát triển bền vững của xã hội. Nói cách khác, vai trò lãnh đạo xã hội, đại diện lợi ích cho giai cấp công nhân, nhân dân và dân tộc của Đảng sẽ tiếp tục được khẳng định không chỉ bằng những kết luận trong lý luận, những quy luật khoa học trong các học thuyết, mà còn và thậm chí quan trọng hơn chính là bằng những thành tựu thực tế trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa, bằng những lợi ích, những giá trị, những tiến bộ, những điều tốt đẹp mà Đảng đang và sẽ mang lại cho giai cấp, cho nhân dân, cho dân tộc.

Tuy nhiên, để có thể hoàn thành trách nhiệm nặng nề trước nhân dân, trước dân tộc thì vấn đề căn bản nhất, sâu xa nhất, vấn đề của mọi vấn đề là Đảng phải thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, không ngừng nâng cao tầm trí tuệ, tự làm giàu kho tàng kinh nghiệm bằng những bài học phong phú, sinh động của thực tiễn cách mạng, phải kiên quyết chống suy thoái về đạo đức, tha hóa, biến chất về chính trị, chống quan liêu, tham nhũng dưới mọi hình thức, ở tất cả các cấp trong hệ thống chính trị. Đảng phải được xây dựng và thường xuyên hoàn thiện về tư tưởng, tổ chức, cán bộ, phương pháp công tác, về quan hệ với nhân dân, với hệ thống chính trị để ngang tầm với những yêu cầu, nhiệm vụ chính trị mới mẻ.

Đảng lãnh đạo nhân dân từng bước thực hiện thắng lợi cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa cũng có nghĩa là Đảng phải thông qua thực tiễn đó để hình thành được hệ thống những cơ sở, nền tảng cho sự vận động, phát triển xã hội và chế độ một cách bền vững. Sự bền vững của chế độ được nhìn nhận từ nhiều bình diện khác nhau, trong đó yêu cầu đặt ra là: con đường và mục tiêu phải được duy trì; sự vận động của xã hội phải theo chiều hướng tích cực, tiến bộ; phải tạo ra được những cơ sở vật chất, những cơ sở kinh tế, khoa học, kỹ thuật và công nghệ bảo đảm cho sự phát triển không ngừng của xã hội; xã hội phải có được những cơ chế tự thân để nhanh chóng thích ứng với những thay đổi về hoàn cảnh và tự bảo vệ sự ổn định trước những biến động chính trị. Đến lượt mình, việc đạt được những yêu cầu đó lại trở thành điều kiện bảo đảm cho Đảng ta giữ vững vai trò lãnh đạo xã hội, giữ vững vị trí là đội tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động, đồng thời là đội tiên phong của dân tộc.

* * *

Cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga vĩ đại đã cách xa chúng ta 90 năm. Hơn 16 năm đã trôi qua kể từ ngày mô hình xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ. Thế giới đã trải qua những biến đổi vô cùng nhanh chóng và phức tạp trong những khoảng thời gian đó. Nhưng những bài học xương máu, lịch sử từ những biến cố đó vẫn còn nguyên giá trị. Thậm chí thực tế ngày nay càng đòi hỏi chúng ta không chỉ không quên đi mà còn phải tiếp tục nghiên cứu, phân tích những bài học đó nhằm tìm ra những phương pháp, cách thức để khắc phục sai lầm, phát huy những nhân tố tích cực, góp phần giải quyết có hiệu quả những vấn đề thực tế đang đặt ra, từng bước thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa.
 

[1] V.I. Lê-nin: Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1998, t 37, tr 269 – 267

[2] C.Mác và Ph.Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1995, t 18, tr 128

[3] Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, t 8, tr 498

[4] Xem: Hồ Chí Minh: Sđd, t 8, tr 497

[5] Hồ Chí Minh: Sđd, 1995, t 3, tr 10

[6] V. I. Lê-nin: Sđd, Nxb Tiến bộ, Mát-xcơ-va, 1978, t 45, tr 333-334

[7] Hồ Chí Minh: Sđd, t 4, tr 161

[8] Hồ Chí Minh: Sđd, t 6, tr 190

[9] Hồ Chí Minh: Sđd, t 10, tr 462

[10] Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr 68

[11] Văn kiện đã dẫn, tr 128

[12] Hồ Chí Minh: Sđd, t 9, tr 571