Quyết sách mang tính đột phá
Chỉ mới 5 năm thực hiện Chỉ thị số 40-CT/TW, ngày 22-11-2014, của Ban Bí thư Trung ương Đảng, về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với tín dụng chính sách xã hội (Chỉ thị số 40), song bức tranh tín dụng chính sách tại tỉnh Ninh Bình đã mang những gam màu mới, ở đó, không chỉ là quy mô, chất lượng tín dụng đều tăng mà hơn thế sự công hưởng sức mạnh của cả hệ thống chính trị được tăng cường và hội tụ làm rạng sáng hơn một chính sách tín dụng riêng mang đầy tính nhân văn của Đảng và Chính phủ.
Chúng tôi về xã Gia Lâm, huyện Nho Quan ngay sau đêm cơn bão quét qua dải từ Ninh Bình đến Quảng Ninh. Mưa vẫn không ngừng rơi, nhưng từ sáng sớm, những cán bộ Ngân hàng Chính sách xã hội (NHCSXH) huyện Nho Quan đã có mặt để chuẩn bị phiên giao dịch tại xã theo đúng định kỳ. Phiên giao dịch cũng không vì mưa mà thưa thớt, nhiều người dân đến từ sớm cùng các tổ trưởng tổ tiết kiệm và vay vốn cùng các hội, đoàn thể mong ngóng đến giờ giải ngân để nhận tiền về hiện thực hóa ước mong phát triển kinh tế của gia đình.
Phó Chủ tịch Ủy ban nhân dân xã Gia Lâm, Phạm Đức Thiện cho biết, Gia Lâm đã đạt tiêu chuẩn nông thôn mới vào năm 2015, nhưng câu chuyện phát triển, giảm nghèo bền vững vẫn còn nhiều trăn trở. Bởi đây là xã miền núi, lại nằm trong vùng phân lũ, chậm lũ, thường xuyên bị úng, lụt nên đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn khi có tới l.840ha đất song chỉ có 300ha cấy lúa một vụ, vụ còn lại người dân cũng tận dụng nuôi cá, song phải năm mưa nhiều, thì cá cũng trôi theo mưa lũ. Chính bởi vậy, chuyển đổi cây trồng và hướng đến chăn nuôi là con đường mà những người dân xã lựa chọn để ổn định cuộc sống và nguồn vốn tín dụng chính sách, đặc biệt sau khi có Chỉ thị số 40 cùng với sự vào cuộc và đồng lòng của các cấp ủy, chính quyền địa phương đã góp phần khéo giảm tỷ lệ hộ nghèo từ 10% năm 2015 giảm xuống còn 2,15% cuối năm 2018. Dòng vốn tín dụng chính sách hiện còn dư nợ 19 tỷ đồng trong đó chủ yếu là cho vay giải quyết việc làm, nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, hộ nghèo đã giúp nhiều người dân trong xã hướng tới mô hình phát triển kinh tế hàng hóa bền vững như chuyển đổi cây ăn quả, hoa đào, lúa, cá, gia cầm và chăn nuôi lợn hoặc mô hình cá lúa. Thu nhập bình quân đầu người toàn xã đạt 32 triệu đồng/năm thay vì 5 năm trước chỉ hơn 20 triệu đồng.
Nhận 50 triệu đồng vốn vay hộ thoát nghèo tại phiên giao dịch xã Gia Lâm, bà Đinh Thị Tầm không giấu nổi nụ cười còn nơi khóe miệng. Nuôi 4 đứa con cho đến ngày chúng trưởng thành, hai ông bà vẫn chẳng thể bước qua nghèo khó. Cho đến khi bà được Hội Nông dân và tổ tiết kiệm và vay vốn hướng dẫn bà vay 30 triệu đồng vốn ưu đãi từ NHCSXH phát triển kinh tế năm 2016. Khởi đầu với 1 con bò và một con lợn nái, dồn tích thu nhập qua những ngày tháng bán lợn và bê đã giúp bà có thêm thu nhập thoát nghèo cuối năm 2018, trả nợ ngân hàng và tích lũy cho mình đôi bò. Tuy nhiên, nếu chỉ có 2 con bò, dù đã thoát khỏi danh sách hộ nghèo, nhưng câu chuyện nâng cao chất lượng cuộc sống hơn nữa vẫn là bài toán khó. Chính vì vậy, lần vay vốn này bà quyết tâm mua thêm 2 con bò sinh sản. Nếu thuận lợi, mỗi năm bà sẽ có 4 con bê, bán đi mỗi năm cũng được 50 - 60 triệu đồng.
Cũng được giải ngân 50 triệu đồng chương trình hộ cận nghèo trong đợt này, anh Nguyễn Văn Vượng ở thôn 8, xã Gia Lâm không khỏi bùi ngùi nhớ lại những ngày tháng gian khó, con cái còn nhỏ nheo nhóc, mẹ già ốm. Hai vợ chồng anh, gian nan cày cấy, làm thuê làm mướn cũng không đủ cho 5 miệng ăn. Nghèo khó bủa vây đến khi anh được vay vốn hộ nghèo đầu tư 2 con bò vài đôi lợn nái. Ngày tháng thoi đưa, gia đình anh đã trả hết vốn ngân hàng thoát nghèo và tích lũy đầu tư xây dựng chuồng nuôi bò quy mô lớn 12 con, nếu không vì dịch bệnh lợn, lúc nào nhà anh cũng có 5 - 7 con lợn lái. Chi tiêu rồi, mỗi năm cũng tích lũy được 20 triệu đồng. Tuy nhiên, con lớn của anh đã bước vào cấp ba, con thứ hai đã học lớp 12 đòi hỏi những nhu cầu đời sống lớn hơn. Vì vậy, lần này, anh quyết tâm vay vốn hộ cận nghèo tăng đàn bò, mở rộng quy mô lên gấp đôi.
Kết quả sau 5 năm thực hiện Chỉ thị số 40 cũng đã trở thành điểm tựa nâng cao chất lượng tín dụng với việc cấp ủy, chính quyền các cấp đã xác định nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ đạo đối với hoạt động tín dụng chính sách xã hội là nhiệm vụ thường xuyên trong chương trình, kế hoạch, hoạt động của các cấp ủy, các ngành, địa phương. Công tác củng cố, nâng cao chất lượng tín dụng chính sách được cấp ủy, chính quyền các cấp quan tâm, chỉ đạo quyết liệt, thực sự vào cuộc cùng NHCSXH. Hằng năm chỉ đạo xây dựng lộ trình và giao kế hoạch giảm số tuyệt đối nợ quá hạn cho các đơn vị, đồng thời chỉ đạo xây dựng phương án củng cố, nâng cao chất lượng tín dụng, thành lập các tổ thu hồi nợ khó đòi để đôn đốc thu hồi giảm nợ quá hạn theo lộ trình. Nhờ đó, trong bối cảnh tình hình kinh tế còn nhiều khó khăn, sinh viên ra trường chưa tìm được việc làm hoặc thu nhập thấp, nợ đến hạn nhiều song chất lượng tín dụng luôn được giữ vững, nợ quá hạn đã được thu hồi tốt, nợ quá hạn năm sau luôn giảm so với năm trước, ngày càng có nhiều xã, phường không có nợ quá hạn.
Nhìn lại 5 năm qua triển khai Chỉ thị số 40, mặc dù tình hình kinh tế - xã hội đất nước tiếp tục đối mặt với nhiều khó khăn, ảnh hưởng không nhỏ tới đời sống của người dân nghèo, người dân sống ở khu vực nông thôn… song cấp uỷ, chính quyền địa phương quan tâm chỉ đạo, NHCSXH luôn đồng hành cùng các tổ chức chính trị - xã hội làm nhiệm vụ uỷ thác thực hiện có hiệu quả chính sách tín dụng ưu đãi của Chính phủ đến với hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác. Đến 30-06-2019, tổng nguồn vốn NHCSXH tỉnh Ninh Bình đạt 2.324 tỷ đồng, tăng 674 tỷ đồng (+41%) so với trước khi có Chỉ thị số 40; tổng dư nợ đạt hơn 2.318 tỷ đồng.
Đáng nói từ sau khi có Chỉ thị số 40, công tác chỉ đạo thực hiện tín dụng chính sách ở địa phương được thuận lợi từ cấp tỉnh xuống cơ sở, tạo sự chuyển biến tích cực trong hoạt động tín dụng chính sách xã hội. Trên cơ sở nội dung của Chỉ thị, Tỉnh ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh phân công nhiệm vụ cụ thể cho các sở, ban ngành, hội, đoàn thể theo chức năng, nhiệm vụ làm tốt công tác tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương; chỉ đạo việc tập trung đầu tư nâng cao năng lực, tăng cường cơ sở vật chất, trụ sở và điều kiện làm việc cho hệ thống NHCSXH từ tỉnh đến các huyện, thành phố; giao cho Sở Tài chính và ủy ban nhân dân các huyện, thành phố cân đối, bố trí ngân sách hằng năm của tỉnh, của huyện, thành phố chuyển sang NHCSXH cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách; chỉ đạo ủy ban nhân dân các xã, phường, thị trấn bố trí địa điểm giao dịch thuận tiện, an toàn tại trụ sở ủy ban nhân dân để NHCSXH tổ chức giao dịch, công khai các chính sách, dư nợ của hộ vay, qua đó đã tác động tích cực đối với hoạt động của NHCSXH về tập trung nguồn vốn, nâng cao năng lực và hiệu quả hoạt động của NHCSXH… giúp cho hoạt động của NHCSXH ngày càng ổn định và phát triển bền vững.
Để tạo thêm nguồn lực về vốn cho vay đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách, tạo việc làm cho hộ mới thoát nghèo, chống tái nghèo, giúp giảm nghèo nhanh và bền vững, đáp ứng yêu cầu mục tiêu giảm nghèo của tỉnh, Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh đã ban hành Nghị quyết số 04-NQ/TU, ngày 24-10-2016, về giảm nghèo bền vững tỉnh Ninh Bình giai đoạn 2016 - 2020, theo đó mỗi năm ngân sách các cấp trích bổ sung cho nguồn vốn vay tín dụng để phục vụ chương trình giảm nghèo: Cấp tỉnh tối thiểu 5 tỷ đồng/năm, cấp huyện tối thiểu 500 triệu đồng/năm. Nguồn vốn ngân sách địa phương ủy thác sang NHCSXH để bổ sung nguồn vốn cho vay trên địa bàn tính từ khi có Chỉ thị số 40 đến nay tăng thêm gần 66 tỷ đồng đưa tổng nguồn vốn ngân sách địa phương ủy thác qua NHCSXH để cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách lên hơn 82 tỷ đồng.
Bên cạnh đó, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành Đề án số 12/ĐA-UBND, ngày 20-6-2017, về xuất khẩu lao động tỉnh Ninh Bình triển khai trong 3 năm (2018 - 2020) với tổng kinh phí Đề án là 45 tỷ đồng và Đề án số 29/ĐA-UBND, ngày 23-11-2019, về hỗ trợ vốn vay khởi nghiệp và phát triển sản xuất, kinh doanh cho thanh niên trên địa bàn tỉnh Ninh Bình trong 2 năm (2019 - 2020) với kinh phí thực hiện là 10 tỷ đồng.
Dòng vốn từ ngân sách địa phương đang tạo ra những bước đột phá mới cho công cuộc thoát nghèo, tạo việc làm phát triển kinh tế bền vững tại địa phương. Như trường hợp của anh Đặng Khánh Duy, nhờ vay 50 triệu đồng vốn vay giải quyết việc làm từ ngân sách tỉnh chuyển qua NHCSXH đã giúp anh bước đầu xây dựng lên trang trại chăn nuôi thỏ gia đình, từ đó làm nền tảng xây dựng Hợp tác xã dịch vụ, thương mại TBINI với 11 thành viên. Hoạt động được 4 năm, mỗi năm, hợp tác xã cung ứng khoảng 12.000 con thỏ với bình quân 2,5 tấn/tháng, bình quân lãi 50.000đ/con, ước mơ của ông Chủ nhiệm hợp tác xã này còn muốn mở rộng quy mô lớn hơn nữa bởi với quy trình công nghệ chăn nuôi được kiểm soát, sản phẩm của Hợp tác xã luôn có công ty Nhật bao tiêu đầu ra, song khó khăn hiện tại vẫn là tăng quy mô vốn và mở rộng thành viên.
Tuy nhiên, thực tế triển khai cũng cho thấy vẫn còn tình trạng lãnh đạo cấp uỷ, chính quyền cơ sở có lúc, có nơi chưa được sâu sát, chưa quan tâm đúng mức đến công tác quản lý nguồn vốn tín dụng chính sách trên địa bàn, nhất là việc quản lý đối với các hộ gia đình còn dư nợ NHCSXH nhưng đã chuyển đi khỏi địa phương. Một số huyện, thành phố chưa ưu tiên cân đối ngân sách địa phương để bổ sung nguồn vốn cho vay các đối tượng chính sách trên địa bàn.
Chính vì vậy để hiệu quả triển khai Chỉ thị số 40 sâu rộng hơn nữa, Giám đốc NHCSXH tỉnh Ninh Bình Nguyễn Thị Hằng đề nghị các cấp ủy Đảng, hội đồng nhân dân, ủy ban nhân dân các cấp tiếp tục quan tâm hơn nữa đến hoạt động tín dụng chính sách xã hội trên địa bàn, hỗ trợ cơ sở vật chất, điều kiện làm việc cho NHCSXH; đồng thời ưu tiên dành nhiều hơn nữa nguồn vốn từ ngân sách địa phương ủy thác qua NHCSXH để bổ sung nguồn vốn cho vay hộ nghèo và các đối tượng chính sách trên địa bàn. Đồng thời thường xuyên chỉ đạo củng cố và kiện toàn ban đại diện hội đồng quản trị cấp tỉnh, huyện và nâng cao hơn nữa vai trò trách nhiệm của chính quyền và các tổ chức chính trị - xã hội trong việc thực hiện tốt chính sách tín dụng đối với hộ nghèo và các đối tượng chính sách khác./.
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Tầm quan trọng của việc phát triển năng lực tư duy phản biện cho đội ngũ cán bộ tham mưu tổ chức xây dựng Đảng hiện nay
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
-
Việt Nam trên đường đổi mới
Những thành tựu cơ bản về phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam từ khi đổi mới đến nay -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay