TCCS - Đấu tranh tự phê bình và phê bình là việc rất khó. Bí quyết để thực hiện thành công Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 lần này lại chính là ở hai vấn đề cơ bản: trong Đảng, mọi đảng viên từ Trung ương đến cơ sở phải dũng cảm tự phê bình,  có tự phê bình tốt thì phê bình mới có hiệu quả; Đảng phải tin dân và lắng nghe ý kiến xây dựng của nhân dân.

Phải thành tâm, thành ý làm theo chỉ dẫn của Hồ Chí Minh

Trong Di chúc Chủ tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Trong Đảng thực hành dân chủ rộng rãi, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng cố và phát triển sự đoàn kết và thống nhất của Đảng”.

Thực hành dân chủ rộng rãi trong Đảng là bản chất văn hóa và là nền tảng tinh thần của một đảng cách mạng chân chính, đồng thời là tiêu chí để phân biệt với mọi tổ chức chính trị - xã hội khác. Dân chủ là tài sản tinh thần, là nguồn gốc của sức mạnh để Đảng trở thành người đại diện cho trí tuệ, đạo đức, lương tâm và danh dự của cả dân tộc. Hồ Chí Minh thường nói, Đảng cũng ở trong xã hội, do xã hội sinh ra, do đó không phải đã là đảng viên thì có thể trở thành “thánh” ngay, mà ngược lại, vẫn còn rơi rớt những tàn tích, những thói hư tật xấu của xã hội cũ. Để giúp mọi đảng viên, cán bộ gột rửa được thói quan liêu, độc đoán, chuyên quyền, tham nhũng và  thói hư tật xấu, theo Hồ Chí Minh, cần phải mở rộng dân chủ, thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình.

Ngay sau Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định: Việc nước là việc chung không phải của một dòng họ hay một nhóm người nào. Người đã nghiêm khắc và tận tình khuyên bảo cán bộ các cấp đừng “Tưởng mình ở trong cơ quan Chính phủ là thần thánh rồi”(1) nên “Khi phụ trách ở một vùng nào thì như một ông “vua con” ở đấy, tha hồ hách dịch, hoạnh họe...”(2).

Hồ Chí Minh trở thành một nhà chính trị, nhà văn hóa kiệt xuất bởi vì Người luôn biết chân thành lắng nghe và học hỏi. Người khuyên: “người lãnh đạo không nên kiêu ngạo, mà nên hiểu thấu. Sự hiểu biết và kinh nghiệm của mình cũng chưa đủ cho sự lãnh đạo đúng đắn. Vì vậy, ngoài kinh nghiệm của mình, người lãnh đạo còn phải dùng kinh nghiệm của đảng viên, của dân chúng, để thêm cho kinh nghiệm của mình”(3). Với Người, không bao giờ có sự chiếu lệ trước một vấn đề liên quan đến quốc kế, dân sinh, hay một chủ trương, chính sách. Do đó, học theo Người, người đứng đầu mỗi cơ quan, đơn vị phải suy ngẫm thấu đáo, tính trước, lo sau, chuẩn bị kỹ lưỡng khi mở hội nghị. Mà đã hội thì phải nghị, nghĩa là phải dân chủ bàn bạc, thảo luận, tranh luận, phản biện và lắng nghe các ý kiến của nhau, để tìm ra cốt lõi của vấn đề rồi mới biểu quyếtthi hành.

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng chỉ ra rằng: Chúng ta thường nêu vấn đề dân chủ, đồng chí nào cũng thấy phải thực hành dân chủ “Nếu ai nói chúng ta không dân chủ, thì chúng ta khó chịu. Nhưng nếu chúng ta tự xét cho kỹ, thì thật có như thế”(4). Có lẽ hơn bất cứ thời kỳ nào, hiện nay mọi công việc của Đảng, ở tất cả các cấp, các ngành, từ Trung ương đến cơ sở, chúng ta cần phải cùng nhau nhắc lại và đối chiếu, tự hỏi xem mình đã làm theo lời chỉ dẫn trên của Người như thế nào? Vì sao đã có nghị quyết, nhưng vẫn còn không ít cán bộ, đảng viên, kể cả người đã giơ tay biểu quyết, không nghiêm chỉnh thi hành? Rõ ràng đây là một vấn đề lớn, đang có tính thời sự của Đảng (và cũng là đòi hỏi của dân tộc) mà trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng cần mở rộng dân chủ, nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình để tìm rõ căn nguyên?

Người còn chỉ rõ một tình trạng không lành mạnh trong Đảng ta là “Đối với cơ quan lãnh đạo, đối với những người lãnh đạo, các đảng viên và các cán bộ dù có ý kiến cũng không dám nói, dù muốn phê bình cũng sợ, không dám phê bình. Thành thử cấp trên với cấp dưới cách biệt nhau... Trên thì tưởng cái gì cũng tốt đẹp. Dưới thì có gì không dám nói ra. Họ không nói, không phải vì họ không có ý kiến, nhưng vì họ nghĩ nói ra cấp trên cũng không nghe, không xét, có khi lại bị “trù” là khác. Họ không dám nói ra thì họ cứ để trong lòng, rồi sinh ra uất ức, chán nản. Rồi sinh ra thói “không nói trước mặt, chỉ nói sau lưng”, “trong Đảng im tiếng, ngoài Đảng nhiều mồm”, sinh ra thói “thậm thà thậm thụt” và những thói xấu khác”(5). Lời Người nói đã cách chúng ta hơn 60 năm nhưng như đang nói với Đảng, với những người lãnh đạo các cấp hôm nay. Từ đó, chúng ta cần nhận ra những điều giản dị, như chân lý rằng: Có thực hành dân chủ rộng rãi, nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình thì trong hoạch định các quyết sách chính trị mới có sự thống nhất về tư tưởng và hành động, mới có đoàn kết nhất trí thực sự, nếu không sẽ chỉ là “đoàn kết, nhất trí” hình thức, là nguy cơ tiềm ẩn bè phái, chia rẽ, đe dọa sự tồn vong của Đảng và chế độ.

Hồ Chí Minh đã nhiều lần chỉ rõ phải thực hiện phê bình đồng thời cả ba chiều: Từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên và từ ngoài nhân dân vào; nghiêm chỉnh làm theo thứ tự: Cấp trên làm trước, cấp dưới noi gương làm theo; tự phê bình trước, phê bình sau, phải làm thường xuyên, phải tự giác, chú trọng tự phê bình mình trước, phê bình người sau, phê bình mình là chính. Hiện nay, ở nhiều cấp, nhiều ngành, có những người đứng đầu không mấy khi làm việc dân chủ, bàn bạc, thảo luận, tranh luận trong nội bộ, không muốn lắng nghe những ý kiến của đồng chí, mà thường áp đặt ý mình lên tập thể, cố gò ý chí cá nhân thành nghị quyết của tập thể. Ít nơi bí thư và ban thường vụ tự phê bình nghiêm khắc mà thường lảng tránh khuyết điểm, sợ chịu trách nhiệm, đổ lỗi cho khách quan và tập thể. Báo cáo tự phê bình của cấp ủy thường nói nhiều đến thành tích, khi nói ra một số thiếu sót, khuyết điểm (thường là những việc không thể bào chữa, dư luận đã phê phán) thì liền sau đó là một câu “tập thể lãnh đạo... xin nhận khuyết điểm và chịu trách nhiệm”. “Tập thể cùng chịu trách nhiệm” có nghĩa là “không có cá nhân nào phải chịu trách nhiệm cả”. Rồi mọi việc tiếp sau lại vẫn nếp ấy, lại phê phán và nhận khuyết điểm tập thể, cái vòng tròn luẩn quẩn ấy cứ quay mãi, tâm điểm vẫn nguyên nhưng bán kính thì lần sau lớn hơn lần trước.

Thực hành dân chủ, tự phê bình và phê bình đã bị biến thành hình thức, chiếu lệ, thành thói quen, thành nếp sinh hoạt ở không ít tổ chức đảng, cơ quan, công sở. Đoàn kết nội bộ, tình chân thành của những người đồng chí với nhau chỉ còn là sự “bằng mặt không bằng lòng”, trí tuệ của đảng viên không được phát huy, tổ chức yếu kém, do đó mà sức chiến đấu của tổ chức đảng ngày một sa sút. Làm theo di huấn của Hồ Chí Minh, chúng ta phải kiên quyết bỏ cách nói, cách làm chung chung, đại khái, nói nhiều làm ít, nói chỉ để người khác làm, cấp dưới làm. Đúng như Hồ Chí Minh đã từng nói: Dân chủ là chìa khóa vạn năng; tự phê bình và phê bình là quy luật phát triển, là vũ khí sắc bén của Đảng. Người còn dặn rằng “Đảng tức là nhiều đảng viên hợp lại... Đảng không phải trên trời rơi xuống... Nói chung, Đảng mạnh vì Đảng có vũ khí tốt. Nhưng từng bộ phận, từng cá nhân có cái xấu... ở đây cũng như ở nơi khác còn nhiều khuyết điểm; mặc dù những khuyết điểm ấy nhiều, ít, to, nhỏ khác nhau, nguyên nhân là vì... không thật thà nghiêm khắc tự phê bình”(6).     

Nhìn lại một chặng đường

Từ khi thống nhất nước nhà tới nay, Đảng ta đã qua 8 kỳ đại hội, không nhiệm kỳ nào Đảng không nhấn mạnh đến công tác tự phê bình và phê bình. Văn kiện Đại hội IV của Đảng ghi rõ: “Tự phê bình và phê bình là một quy luật phát triển và tiến bộ của Đảng, cũng là một phương pháp căn bản để tăng cường đoàn kết, thống nhất trong Đảng”(7). Sau hai nhiệm kỳ Đại hội IV và V (1976 - 1986), một chặng đường 10 năm, bên cạnh những thành tựu đạt được, Đảng ta thừa nhận đã mắc không ít sai lầm, khuyết điểm, “đặc biệt là những sai lầm về chính sách kinh tế, là bệnh chủ quan, duy ý chí... Phong cách lãnh đạo và lề lối làm việc mang nặng chủ nghĩa quan liêu, lời nói không đi đôi với việc làm, không tuân thủ quy trình làm việc và ra quyết định. Việc chỉ đạo, điều hành thường không tập trung, thiếu kiên quyết và nhất quán. Trong các đảng bộ và các cấp ủy có sự vi phạm nguyên tắc... trong sinh hoạt đảng”(8). Để khắc phục những khuyết điểm đã mắc phải, Đại hội VI (năm 1986) nhấn mạnh: “Đẩy mạnh tự phê bình và phê bình đúng với ý nghĩa là quy luật phát triển của Đảng, thước đo trình độ sinh hoạt dân chủ trong Đảng và ý thức trách nhiệm của Đảng đối với nhân dân. Người cộng sản phải dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật. Trong Đảng không thể dung thứ thái độ che giấu khuyết điểm, thổi phồng thành tích, lừa dối cấp trên, thái độ nể nang, hoặc đàn áp, trả thù người phê bình”(9).

Đại hội XI của Đảng nhận định: “Quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn còn nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc xã hội... Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn thấp; công tác quản lý đảng viên chưa chặt chẽ, sinh hoạt đảng chưa nền nếp, nội dung sinh hoạt nghèo nàn, tự phê bình và phê bình yếu… Nhiều khuyết điểm, sai lầm của đảng viên và tổ chức đảng chậm được phát hiện. Tình trạng thiếu trách nhiệm, cơ hội, suy thoái đạo đức, lối sống vẫn diễn ra khá phổ biến trong một bộ phận cán bộ, đảng viên”(10). Để nâng cao sức mạnh của Đảng, kiên quyết khắc phục những sai lầm, khuyết điểm, tồn tại, Đại hội XI yêu cầu: “Coi trọng đổi mới và nâng cao chất lượng sinh hoạt cấp ủy, tổ chức đảng, chất lượng tự phê bình, phê bình trong sinh hoạt đảng”(11).

Qua hơn 1 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội XI của Đảng, thực trạng công tác xây dựng Đảng có không ít những vấn đề cũ chưa được khắc phục thì những vấn đề mới lại nóng lên. Do vậy, ngày 16-1-2012 Ban Chấp hành Trung ương đã ban hành Nghị quyết số 12-NQ/TW “Một số vấn đề cấp bách về xây dựng Đảng hiện nay”. Nghị quyết lần này lại một lần nữa chỉ rõ tính cấp thiết của vấn đề: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có những đảng viên giữ vị trí lãnh đạo, quản lý, kể cả một số cán bộ cao cấp, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau về sự phai nhạt lý tưởng, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi, tiền tài, kèn cựa địa vị, cục bộ, tham nhũng, lãng phí, tùy tiện, vô nguyên tắc... Nguyên tắc “tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách” trên thực tế ở nhiều nơi rơi vào hình thức do không xác định rõ cơ chế trách nhiệm, mối quan hệ giữa tập thể và cá nhân; khi sai sót, khuyết điểm không ai chịu trách nhiệm”(12).

Trong những vấn đề cơ bản và cấp bách của công tác xây dựng Đảng hiện nay, Chỉ thị của Bộ Chính trị đã xác định: “kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của đảng viên và của nhân dân đối với Đảng là trọng tâm, xuyên suốt và cấp bách nhất”. Trong Chỉ thị đó lại một lần nữa xác định nhóm giải pháp đầu tiên là  tự phê bình và phê bình.

Có thể thấy rằng, trong những năm qua, tuy Đảng ta luôn nhận thức đúng về vai trò của quy luật tự phê bình và phê bình nhưng chúng ta còn nhiều thiếu sót, bất cập khi vận dụng quy luật ấy trong thực tiễn, vì thế tự phê bình và phê bình đã bị biến dạng, thậm chí nhiều nơi đã xem thường quy luật đó nên đã hành động một cách hời hợt, qua loa. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên hiện nay làm nóng lên một sự phản ứng của nhân dân trước tình trạng tha hóa (Bác Hồ gọi là hủ hóa, tức là tốt đẹp chính nghĩa hóa thành xấu xa, bẩn thỉu) chính là kết quả của sự làm biến dạng, sự hình thức và giả dối trong khi vận dụng quy luật tự phê bình và phê bình. Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI chính  là sự sửa chữa những sai lầm, thiếu sót trong quá trình vận dụng quy luật tự phê bình và phê bình trên một trình độ nhận thức cao hơn, sâu sắc hơn cả về lý luận và thực tiễn.

Phải bắt đầu từ vấn đề cơ bản nhất

Kỷ luật Đảng là kỷ luật tự giác trên cơ sở nhận rõ và vận dụng đúng đắn quy luật tự phê bình và phê bình. Tự phê bình và phê bình là một quy luật trong hoạt động của con người dựa trên tinh thần tự giác, mà tinh thần tự giác chỉ có thể có khi người ta thực lòng tin tưởng sắt son vào một lý tưởng cao đẹp; niềm tin ấy sẽ giúp con người vượt qua được mọi trở lực, mọi toan tính nhỏ nhen, thấp hèn. Vì vậy Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI bắt đầu từ điểm xuất phát của việc vận dụng quy luật tự phê bình và phê bình là chống suy thoái về tư tưởng chính trị, về đạo đức, lối sống. Đây chính là cơ sở của tinh thần tự giác, là động lực của hành động. Đảng ta là đảng chính trị, đảng chân chính cách mạng, nếu đảng viên, cán bộ, nhất là cán bộ lãnh đạo từ trên xuống dưới mà phai nhạt lý tưởng cách mạng, không trong sáng về tư tưởng (Hồ Chí Minh gọi một cách dễ hiểu là “lòng dạ không trong sáng nữa”) thì làm sao có thể tự giác hành động, có dũng khí đấu tranh tự phê bình với chính mình và đấu tranh phê bình với đồng chí? Đối lập với sự trong sáng là lòng dạ đen tối. Hồ Chí Minh coi đó là lòng dạ của kẻ buôn lậu, gian dối chợ đỏ chợ đen, là kẻ biến Đảng thành cái cầu thang mưu lợi ích cá nhân. Đảng phải làm tròn nhiệm vụ là giải phóng dân tộc làm cho Tổ quốc giàu mạnh, đồng bào sung sướng.

Hồ Chí Minh đã từng chỉ rõ Đảng ta vĩ đại vì Đảng có đạo đức cách mạng. Mỗi đảng viên phải là một người có đạo đức, phải thực sự xứng đáng  là người con hiếu thảo của nhân dân. Có như vậy Đảng ta  mới là một đảng có tư cách, một đảng trung với nước, hiếu với dân, một đảng không có lợi ích nào khác là phục vụ nhân dân, làm đầy tớ thật trung thành của nhân dân, để dẫn dắt nhân dân đi trên con đường văn minh tiến bộ, tự hào  với khẩu hiệu “đảng viên đi trước làng nước theo sau”.

Trong Hội nghị cán bộ toàn quốc quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Trung ương 4 vừa qua, đồng chí Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã thay mặt Bộ Chính trị chỉ rõ: Sự suy thoái về đạo đức, lối sống thể hiện ở chỗ: sống ích kỷ, thực dụng, cơ hội, vụ lợi, hám danh, tham nhũng, lãng phí; bè phái, cục bộ, mất đoàn kết; phong cách quan liêu, xa dân, vô cảm trước khó khăn, bức xúc của dân; lối sống xa hoa, hưởng lạc... Trong những biểu hiện đó, cán bộ, đảng viên, nhân dân và dư luận xã hội quan tâm nhiều nhất, bức xúc nhất là tình trạng tham nhũng, bè phái, cục bộ, lợi ích nhóm... ở một bộ phận đảng viên có chức, có quyền, cả trong một số cán bộ cao cấp của Đảng, Nhà nước, đương chức, hoặc thôi chức.

Mọi người chờ đợi, hy vọng tin tưởng rằng, nắm vững quy luật tự phê bình và phê bình và với tinh thần nói đi đôi với làm của Hồ Chí Minh, lần này Đảng ta sẽ hành động đúng quy luật thể hiện ở Chỉ thị của Bộ Chính trị và văn bản hướng dẫn thi hành của Trung ương, khẳng định nêu cao tính tiền phong, gương mẫu và quyết tâm chính trị của cấp trên, cụ thể: “Một là, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ban Chấp hành Trung ương tập trung kiểm điểm, đánh giá làm rõ tại sao những hạn chế, khuyết điểm đã chỉ ra nhiều năm nhưng chậm được khắc phục, có mặt còn yếu kém, phức tạp thêm; làm rõ nguyên nhân trở ngại trong việc lãnh đạo thực hiện các nghị quyết của Trung ương về xây dựng Đảng.

Hai là, các đồng chí Ủy viên Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Ủy viên Ban Chấp hành Trung ương tiến hành kiểm điểm, đánh giá liên hệ bản thân về kết quả thực hiện nhiệm vụ được giao liên quan đến một số vấn đề cấp bách nêu trong Nghị quyết này, đề ra biện pháp khắc phục. Tập trung làm rõ trách nhiệm cá nhân, gương mẫu thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình, nói đi đôi với làm, nêu gương về đạo đức, lối sống.

Ba là, các đồng chí ủy viên ban cán sự đảng, đảng đoàn, đảng ủy trực thuộc Trung ương, lãnh đạo các ban của Trung ương Đảng, ban thường vụ các tỉnh ủy, thành ủy và cấp ủy các cấp nghiêm túc kiểm điểm, tự phê bình và phê bình, nêu gương bằng hành động thực tế. Trong quá trình kiểm điểm cần liên hệ, gắn với xem xét việc thực hiện các quy chế, quy định; việc giải quyết những vấn đề về tổ chức, cán bộ; về giải quyết những vấn đề bức xúc của ngành, cơ quan hoặc địa phương.”(13).

Tất nhiên, để có sự chuyển biến rõ rệt cần có thời gian, đó là một quá trình mang tính tích cực cách mạng, nhưng mong rằng các cấp ủy không ỷ vào đó mà để mọi sự việc dây dưa, trôi đi một cách vô thời hạn; có những việc quá bức xúc trong dư luận xã hội sẽ cần  phải  được chỉ ra và giải quyết dứt điểm. Rõ ràng, đã đến lúc không thể chỉ ra khuyết điểm chung chung, ai cũng đồng tình lên án, chống lại những hiện tượng đó, nhưng chẳng ai tự giác nhận khuyết điểm. Trước đây Hồ Chí Minh đã phê phán tình trạng ai cũng phê phán hiện tượng quan liêu, mất dân chủ, nhưng ai cũng tưởng lỗi ấy là của người khác. Người cách mạng phải nắm vững tự phê bình và phê bình luôn là quy luật phát triển của Đảng, và phải kiên quyết hành động để nó thực sự trở thành vũ khí sắc bén trong việc xây dựng và chỉnh đốn Đảng, như Hồ Chí Minh từng nói là: phò chính trừ tà./.

-----------------------------------------------

(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội 1995. t. 4, tr. 57

(2), (3) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 5, tr. 72, 285

(4), (5) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 5, tr. 243

(6) Hồ Chí Minh: Sđd, t. 8, tr. 33

(7) Văn kiện Đảng: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, t. 37, tr. 638 - 639

(8), (9) Văn kiện Đại hội Đảng thời kỳ đổi mới, 
Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2005, tr. 25, 27, 146

(10), (11) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 172, 174, 175, 259

(12) Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2012, tr. 22 – 23

(13) Văn kiện Hội nghị lần thứ tư khóa XI đã dẫn, tr. 28 - 29