TCCSĐT - “Có những người đang cố gắng cô lập Cuba. Nhưng những người châu Âu lại muốn thắt chặt mối quan hệ với Cuba hơn bao giờ hết. Người dân Cuba sẽ không bị cô lập. Nhiều người đóng cánh cửa và bức tường với Cuba, trong khi đó châu Âu muốn xây dựng các cây cầu và mở cửa hợp tác và đối thoại với Cuba”, Đại diện cấp cao của Liên minh châu Âu (EU) về chính sách an ninh và đối ngoại, bà F. Mogherini khẳng định nhân chuyến thăm 2 ngày tới Cuba (ngày 03 và 04-01-2018). Đây được đánh giá là tín hiệu tích cực nhằm tái khẳng định các thỏa thuận được ký kết giữa hai bên.

Châu Âu thúc đẩy quan hệ với Cuba

 
 Đại diện cấp cao của Liên minh châu Âu (EU) về chính sách an ninh và đối ngoại, bà F. Mogherini thăm Cuba. Ảnh: ec.europa.eu

Trái ngược với Mỹ, EU đang có những bước phát triển tích cực trong quan hệ với Cuba. Mặc dù Thỏa thuận Hợp tác và Đối thoại chính trị EU - Cuba (PDCA) đang chờ đợi sự phê chuẩn cuối cùng của tất cả các nước thành viên EU, nhưng việc bình thường hóa quan hệ với Cuba đã đưa EU trở thành một trong những đối tác thương mại chính của quốc gia này. EU hiện là nhà đầu tư lớn nhất của Cuba, đồng thời là đối tác thương mại lớn thứ hai của Cuba. Do đó, Cuba quan tâm nhiều hơn đến việc giành lại các nguồn đầu tư từ châu Âu trong tương lai. Hiện hợp tác của EU đã được thực hiện trên tất cả lĩnh vực trong các dự án phát triển tại Cuba.

Việc EU liên tục phát đi những tín hiệu tích cực với Cuba cũng được xem là kết quả của những thành tựu mà chính quyền La Habana đạt được trong việc cải cách kinh tế, đem lại sự tiến bộ đáng kể tại đảo quốc này. Bên cạnh những thành tựu về kinh tế, Cuba còn giữ được sự ổn định về an ninh, chính trị. Chính vì vậy, chuyến thăm tới Cuba của nhà ngoại giao hàng đầu EU được cho là một cam kết của khối nhằm thúc đẩy quan hệ với Cuba trong thời gian tới.

Nhìn lại cả quá trình, EU và Cuba bắt đầu đàm phán PDCA vào tháng 4-2014. Trải qua 7 vòng đàm phán, ngày 11-3-2016, EU và Cuba đã tiến hành ký tắt thỏa thuận này. Ngày 12-12-2016, EU và Cuba chính thức ký kết PDCA. Trước khi PDCA được ký kết, Cuba là nước duy nhất trong khu vực mà EU chưa có cơ sở pháp lý cho hoạt động đối thoại và hợp tác. Ngày 05-7-2017, Nghị viện châu Âu (EP) đã thông qua thỏa thuận PDCA và bắt đầu áp dụng tạm thời vào ngày 01-11-2017. Các nhà phân tích nhận định, PDCA có hiệu lực là điều mà cả EU và Cuba đều trông đợi, đặc biệt trong bối cảnh hiện tại. Đối với Cuba, việc xây dựng mối quan hệ chính trị tốt đẹp với EU đem đến cho quốc gia Nam Mỹ cơ hội tranh thủ sự hỗ trợ từ một đối tác lớn và giàu tiềm lực cho quá trình phát triển kinh tế. PDCA cũng sẽ mở đường cho một loạt quan hệ hợp tác giữa hai bên trong nhiều dự án, từ việc bảo vệ môi trường tới việc hiện đại hóa hệ thống thu thuế của Cuba.

Cộng đồng quốc tế hy vọng, chuyến thăm của đại diện cấp cao EU về chính sách an ninh và đối ngoại F. Mogherini trong thời điểm này sẽ là nền tảng để hai bên xây dựng mối quan hệ mới, trên cơ sở đối thoại, tôn trọng lẫn nhau, hợp tác bình đẳng và hiệu quả.

Những dịch chuyển quan trọng ở châu Á - Thái Bình Dương

 
 Các nhà lãnh đạo các nền kinh tế APEC tại Tuần lễ Cấp cao APEC 2017. Ảnh: TTXVN

Châu Á - Thái Bình Dương - khu vực phát triển năng động nhất và đóng vai trò đầu tàu trong liên kết kinh tế thế giới, trong năm 2017, đã chứng kiến những sự dịch chuyển quan trọng cả về kinh tế lẫn chính trị.

Cũng như nhiều khu vực khác trên thế giới, trong năm 2017, châu Á - Thái Bình Dương bị tác động bởi tình trạng kinh tế thế giới phục hồi chậm hơn dự kiến, thương mại toàn cầu suy giảm và chủ nghĩa bảo hộ gia tăng. Song, năm 2017 đã ghi dấu những nỗ lực bền bỉ của khu vực mà một trong những thành tựu nổi bật đó là sự thành công của Năm APEC 2017. Lãnh đạo các nền kinh tế APEC đã nhất trí thông qua Tuyên bố Đà Nẵng “Tạo động lực mới, cùng vun đắp tương lai chung” nhằm thúc đẩy phát triển bao trùm về kinh tế, tài chính, xã hội, hướng tới xây dựng Cộng đồng APEC phát triển bao trùm và tự cường. Bên cạnh đó, sự ra đời của Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) thay thế Hiệp định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) cũng mở ra hướng đi mới cho hợp tác kinh tế các nước thành viên.

Năm 2017 cũng đánh dấu mốc lịch sử 50 năm hình thành và phát triển của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN), ghi nhận sự đoàn kết của khối trong nỗ lực duy trì hòa bình, ổn định và thượng tôn pháp luật trên Biển Đông. Năm 2017, ASEAN cũng đã thể hiện rõ nỗ lực đi đầu xây dựng và đàm phán các hiệp định thương mại chất lượng cao với việc ký Hiệp định Thương mại tự do ASEAN - Hong Kong (Trung Quốc), cũng như đạt được bước tiến mới trong đàm phán Hiệp định Đối tác kinh tế toàn diện khu vực (RCEP) với 6 nước đối tác để đi đến ký kết thỏa thuận này trong năm 2018.

Đặc biệt, với sự tăng trưởng ngoạn mục, trong năm qua, 3 nền kinh tế Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản vẫn tiếp tục đóng vai trò động lực tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Tốc độ tăng trưởng GDP của Trung Quốc trong năm 2017 ước đạt 6,8%, tăng 0,1% so với năm 2016. Trong khi đó, Hàn Quốc đã trở thành nhà xuất khẩu lớn thứ 6 trên thế giới, vượt 2 bậc so với năm 2016. Còn nền kinh tế Nhật Bản với chính sách Abenomics của Thủ tướng S. Abe đã tăng trưởng trở lại sau nhiều năm đình trệ.

Trong năm 2017, khu vực châu Á cũng trở thành tâm điểm khi thu hút sự quan tâm của các nước lớn, đặc biệt là Mỹ. Kể từ khi lên nhậm chức, Tổng thống Mỹ D. Trump nhiều lần khẳng định tầm quan trọng của khu vực châu Á - Thái Bình Dương trong các chính sách của Mỹ. Trong chuyến thăm lịch sử tới năm nước châu Á (tháng 11-2017), Tổng thống D. Trump đã công bố tầm nhìn mới “Ấn Độ - Thái Bình Dương”, chính thức khép lại chính sách “xoay trục” sang châu Á của người tiền nhiệm B. Obama để mở ra một chương mới cho chiến lược của Mỹ đối với khu vực này. Chính sách “Ấn Độ Dương - Thái Bình Dương” được đánh giá là rộng mở hơn về mặt địa lý và tầm nhìn.

Nhiều trở ngại trong quan hệ đồng minh Mỹ - Pakistan

 
 Mỹ tuyên bố rút khoản viện trợ quân sự 255 triệu USD cho Pakistan. Ảnh: Reuters

Quan hệ đồng minh giữa Mỹ và Pakistan trở nên căng thẳng khi Mỹ tuyên bố rút khoản viện trợ quân sự 255 triệu USD cho Pakistan với lý do nước này không hợp tác đầy đủ trong cuộc chiến chống khủng bố của Mỹ.

Ngày 02-01-2018, Đại sứ Mỹ tại Liên hợp quốc N. Haley tuyên bố, Washington sẽ rút khoản viện trợ 255 triệu USD dành cho Pakistan, bởi Washington cho rằng, trong nhiều năm qua, Pakistan vừa hợp tác với Mỹ, song cũng chứa chấp những kẻ khủng bố tấn công binh sỹ Mỹ tại Afghanistan.

Diễn biến này xảy ra sau khi trong bình luận đầu tiên của năm 2018 trên mạng xã hội Twitter, Tổng thống Mỹ D. Trump cáo buộc Pakistan không mang lại gì cho Mỹ và cung cấp “nơi trú ẩn an toàn” cho những kẻ khủng bố để đổi lấy 33 tỷ USD tiền viện trợ của Mỹ trong suốt 15 năm qua. Đây không phải là thông tin gây bất ngờ khi tuần trước, Thời báo New York Times đưa tin chính quyền của Tổng thống D. Trump đang nghiêm túc cân nhắc khả năng từ chối khoản viện trợ trị giá 225 triệu USD vốn đã trì hoãn cho Pakistan, do Islamabad không “trấn áp tốt hơn các nhóm khủng bố ở nước này”.

Phản ứng trước những phát ngôn mới nhất của Tổng thống Mỹ, Ngoại trưởng Pakistan K. Asif gọi đây là “chiêu trò chính trị” nhằm che dấu sự thất bại của Mỹ tại Afghanistan - nơi các nhóm vũ trang Taliban đang mở rộng vùng lãnh thổ chiếm đóng và thực hiện các vụ tấn công lớn. Ông K. Asif còn thẳng thừng tuyên bố, Pakistan không cần viện trợ của Mỹ. Pakistan cũng đã triệu hiệu Đại sứ Mỹ tại Pakistan D. Hale đến để phản đối phát ngôn của Tổng thống D. Trump. Trong diễn biến liên quan, Thủ tướng Pakistan K. Abbasi đã triệu tập một cuộc họp khẩn của Ủy ban An ninh quốc gia (NSC), thể hiện sự thất vọng sâu sắc của Pakistan đối với tuyên bố của Tổng thống Mỹ, đồng thời khẳng định Pakistan vẫn cam kết đóng vai trò xây dựng trong tiến trình hòa bình của Afghanistan dù đang phải chịu các cáo buộc không chính đáng.

Phản ứng mạnh mẽ của Pakistan báo hiệu một giai đoạn đầy sóng gió trong mối quan hệ giữa hai đồng minh truyền thống này. Tuy nhiên, các nhà phân tích cho rằng, với các lợi ích và quan tâm chung, Mỹ và Pakistan vẫn cần phải gác lại những hiềm khích để quan hệ đồng minh không bị đẩy tới bước đổ vỡ. Bởi, Pakistan vẫn cần sự ủng hộ của Mỹ cả về vật chất lẫn “chiếc ô an ninh” để phát triển đất nước, trước mắt là vực dậy nền kinh tế đang giảm sút và đối phó tình trạng bạo lực tràn lan. Còn Mỹ muốn sử dụng Pakistan trong chiến lược đối với khu vực châu Á - Thái Bình Dương, mà trước mắt là hoàn tất chiến lược mới tại Afghanistan. Và hơn hết, yếu tố chính chi phối mối quan hệ giữa Mỹ và Pakistan vẫn là kho vũ khí hạt nhân của Pakistan, mà các nước đối tác, đặc biệt là Mỹ không muốn bị rơi vào tay các nhóm cực đoan.

Vòng xoáy bất ổn ở Iran

 
 Cuộc biểu tình tại Iran trong tuần qua. Ảnh: lemonde.fr

Tình hình Iran trở nên nghiêm trọng khi làn sóng biểu tình gây bạo loạn diễn ra tại một số tỉnh và thành phố của nước này bùng phát suốt một tuần qua nhằm phản đối tình trạng thất nghiệp, lạm phát và tham nhũng kinh tế. Dù tình hình đã được kiểm soát, nhưng những biến động lần này cho thấy Iran bước vào năm 2018 với nhiều thách thức cả trong nội bộ về kinh tế, chính trị, cũng như ảnh hưởng của vòng xoáy bất ổn khu vực và sự can thiệp từ bên ngoài.

Trước tình hình bạo động, ngày 01-01-2018, Tổng thống Iran H. Rouhani khẳng định người dân có quyền thể hiện quan điểm, song mọi hành động không được dẫn tới bạo lực và không được làm tổn hại tới tài sản công cộng, đồng thời tuyên bố lực lượng chức năng nước này sẽ trừng trị “những đối tượng gây rối và vi phạm pháp luật”. Ông H. Rouhani cũng đưa ra cam kết nỗ lực giải quyết những vấn đề kinh tế còn tồn tại ở Iran để trấn an người dân. Ngoại trưởng Iran Mohammad Javad Zarif nhấn mạnh, an ninh và ổn định của Iran phụ thuộc vào chính người dân của nước này, đồng thời tuyên bố “những kẻ xâm nhập” sẽ không được phép xâm phạm các quyền của người dân Iran.

Nguyên nhân chính của các cuộc biểu tình vừa qua được cho là nền kinh tế quản lý yếu kém triền miên tại Iran. Lạm phát, thất nghiệp, tham nhũng và nhiều năm hứng chịu các biện pháp trừng phạt của phương Tây liên quan đến vấn đề hạt nhân Iran đã khiến hệ thống tài chính tại nước này trở nên thiếu minh bạch. Theo thống kê, tỷ lệ thất nghiệp tại Iran hiện nay ở vào khoảng 12%. Trong khi đó, tỷ lệ lạm phát từ sau cuộc cách mạng năm 1979 dao động trong khoảng từ 17% (thập niên 80) cho tới đỉnh điểm là 49% (thập niên 90). Đầu những năm 2000, lạm phát được kiềm chế ở mức 15%, song sau đó lại tăng vọt tới 30% khi ông M. Ahmadinejad làm Tổng thống, trong giai đoạn giá dầu tăng cao và đồng nội tệ Iran bị giảm giá trị tới hơn 450%. Và cho dù, chính quyền Tổng thống Rouhani đã có những thành tựu nhất định trong việc kiềm chế lạm phát ở mức khoảng 10% như hiện nay, và nền kinh tế Iran cũng đã hồi phục tương đối kể từ khi các lệnh trừng phạt được dỡ bỏ vào năm 2015, Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) gần đây cũng dự báo nền kinh tế Iran sẽ tăng trưởng 4,2% trong năm 2018, tuy nhiên, không rõ ai mới là người được lợi từ những thành quả trên.

Những cuộc biểu tình bùng phát một phần vì giá cả hàng hóa leo thang khiến sức mua đi xuống trong khi trợ cấp bị cắt giảm. Những người ủng hộ Tổng thống H. Rouhani cho rằng, cần phải có thời gian thì nền kinh tế mới đi vào ổn định và những người dân thường Iran mới có thể nhận thấy lợi ích từ việc trừng phạt được dỡ bỏ. Trong khi đó, những người biểu tình đã thất vọng hoặc không hài lòng với các cải cách của chính phủ khi không giúp Iran thoát khỏi tình trạng suy sụp kinh tế. Cuộc biểu tình lần này cũng được cho là có sự can thiệp từ bên ngoài khi Iran, Syria và Thổ Nhĩ Kỳ cáo buộc Mỹ, Israel và Saudi Arabia đang hậu thuẫn để làm mất ổn định tại Iran bởi từ lâu nay, Mỹ và Israel đều coi Iran là mối đe dọa lớn ở Trung Đông.

Các nhà phân tích cho rằng, vấn đề nội bộ và đường lối đối ngoại sẽ quyết định tình hình Iran trong thời gian tới. Trong chiến dịch tranh cử Tổng thống, ông H. Rouhani đã đưa ra những tham vọng thậm chí còn lớn hơn nhiệm kỳ đầu của mình, như như chỉnh sửa hệ thống ngân hàng hiện đang gặp khó bởi các khoản cho vay bất động sản xấu, dỡ bỏ các biện pháp trừng phạt còn lại của quốc tế liên quan đến những vấn đề như chương trình tên lửa đạn đạo và nhân quyền, cũng như giải quyết các bất đồng với Mỹ, Israel. Tuy nhiên, chương trình nghị sự của nhà lãnh đạo Iran tới đây được cho là sẽ chịu nhiều sức ép trong nước, khi phe bảo thủ vẫn kiểm soát các lực lượng an ninh và tư pháp.

Giá dầu mỏ thế giới tăng cao kỷ lục

 
 Ảnh minh họa. Ảnh: Tass.com

Trong các phiên giao dịch đầu tiên của năm 2018, thị trường dầu mỏ thế giới đã có sự biến động mạnh khi giá dầu tăng lên mức cao nhất kể từ năm 2015. Tình trạng bất ổn tại Iran, một loạt số liệu kinh tế lạc quan của Mỹ và Đức, vỡ đường ống dẫn dầu ở Libya và Anh được cho là đã tác động lớn tới thị trường “vàng đen”. Bên cạnh đó, việc Tổ chức các nước xuất khẩu dầu mỏ (OPEC) hợp tác với Nga thực hiện cam kết cắt giảm sản lượng khai thác dầu mỏ được dự báo sẽ khiến giá dầu tiếp tục tăng trong thời gian tới, giúp các nhà sản xuất giảm thiệt hại kinh tế.

Mở phiên giao dịch ngày 02-01 tại thị trường London (Anh), hai loại dầu thô đều có giá hơn 60 USD/thùng. Ðáng chú ý, giá dầu thô ngọt nhẹ Mỹ (WTI) đã chạm mức 60,74 USD/thùng. Giá dầu Brent Biển Bắc giao tháng 3-2018 chốt phiên ở mức 66,57 USD/thùng, sau khi có thời điểm lên 67,29 USD/thùng. Tiếp đó, trong phiên giao dịch ngày 03-01, giá dầu thế giới tăng khoảng 2% lên mức cao nhất trong hai năm rưỡi qua. Cụ thể, tại thị trường New York/London, giá dầu WTI khép lại phiên này tăng lên 61,63 USD/thùng. Trong khi giá dầu Brent Biển Bắc tăng ở mức 67,84 USD/thùng. Tại phiên giao dịch ngày 04-01, giá dầu tại thị trường châu Á “vọt” lên mức cao nhất hai năm rưỡi và neo ở quanh mức cao chưa từng thấy kể từ trước thời điểm thị trường hàng hóa toàn cầu sụt giảm trong giai đoạn năm 2014 - 2015. Cuối phiên ngày 04-01, tại sàn giao dịch điện tử Singapore, giá dầu WTI lên 62,16 USD/thùng, giá dầu Brent Biển Bắc cũng tăng lên 68,23 USD/thùng.

Các chuyên gia kinh tế nhận định, một trong những nguyên nhân khiến giá dầu thế giới biến động là những tin tức liên quan vụ nổ đường ống dẫn dầu tại Libya. Vụ nổ xảy ra tại đường ống dẫn dầu xuất khẩu nối với cảng Al-Sidra ở miền Đông Libya được cho là có thể làm giảm sản lượng xuất khẩu của quốc gia Bắc Phi từ 70 đến 100 nghìn thùng/ngày. Trong khi đó, sự cố rò rỉ đường ống dẫn dầu Forties ở Biển Bắc thuộc Anh, dù đã được nối lại hoạt động, cũng đã ảnh hưởng trực tiếp tới hoạt động cung cấp dầu cho châu Âu.

Ngoài ra, thời tiết băng giá tại Mỹ khiến nhu cầu tiêu thụ các loại năng lượng tăng cao trong ngắn hạn, đặc biệt là đối với dầu sưởi ấm. Bên cạnh đó, một loạt số liệu kinh tế lạc quan của Đức và Mỹ cũng góp phần tạo nên sự khởi sắc của giá dầu. Theo thống kê, tỷ lệ thất nghiệp của Đức đã rơi xuống mức thấp nhất trong tháng 12-2017, qua đó củng cố đà phục hồi của nền kinh tế lớn nhất châu Âu này. Kinh tế Mỹ cũng phát đi tín hiệu tích cực khi hoạt động sản xuất tại các nhà máy tăng mạnh hơn dự đoán trong tháng 12-2017.

Một trong những yếu tố nữa ảnh hưởng đến giá dầu trong các phiên giao dịch đầu năm 2018 và được đánh giá sẽ tác động không nhỏ tới thị trường dầu mỏ thế giới trong thời gian tới là tình trạng bất ổn ở Iran, một thành viên của OPEC. Iran là nước sản xuất dầu mỏ lớn thứ ba trong OPEC, với sản lượng mỗi ngày lên tới 3,8 triệu thùng. Do đó, những biến động xảy ra với ngành dầu mỏ nước này có thể ảnh hưởng tới giá dầu thế giới.

Các chuyên gia kinh tế cho rằng giá dầu mỏ thế giới tăng cao nhất trong hơn 2 năm qua ngay trong những ngày đầu tiên của năm 2018 bởi các cường quốc dầu mỏ đã có những biện pháp nhằm kiểm soát giá dầu cũng như có hướng đi riêng. Và trong thời gian tới, giá dầu sẽ tiếp tục được “nâng đỡ” nhờ nhu cầu dầu thô tăng mạnh, thị trường “vàng đen” được kỳ vọng sẽ vượt qua thời kỳ ảm đạm khi các dự báo đều cho thấy nguồn cung dầu mỏ đang có xu hướng giảm./.