Quy hoạch Hà Nội góp phần thúc đẩy sự phát triển liên kết vùng

Lê Thị Phượng
Học viện Báo chí và Tuyên truyền
22:57, ngày 04-09-2024

TCCS - Công tác lập quy hoạch có vai trò quan trọng đối với sự phát triển của các địa phương, vùng kinh tế và cả nước. Trong đó, việc gắn quy hoạch với thúc đẩy liên kết vùng là phương thức thúc đẩy tạo nên giá trị cộng hưởng. Hà Nội với vai trò là trung tâm, động lực tăng trưởng và phát triển của vùng đồng bằng sông Hồng, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và cả nước cần chủ động thúc đẩy liên kết vùng, tạo động lực cho phát triển kinh tế - xã hội.

Liên kết vùng là phương thức phát triển kinh tế - xã hội trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh, tạo lợi thế cạnh tranh, tạo động lực phát triển kinh tế cho vùng thông qua việc kết nối về không gian kinh tế - tự nhiên, kinh tế - xã hội. Thủ đô Hà Nội là trung tâm đầu não chính trị - hành chính quốc gia; nơi hội tụ tinh hoa văn hóa, khoa học, kỹ thuật của cả nước, luôn đi đầu trong nghiên cứu, sáng tạo và chuyển giao khoa học - công nghệ; là một trung tâm kinh tế - tài chính lớn của cả nước và có tầm ảnh hưởng trong khu vực, dựa trên nền tảng phát triển kinh tế xanh, kinh tế tuần hoàn, kinh tế số. Phát triển đô thị xanh, thông minh, hiện đại, là nơi đáng đến và đáng sống, đáng cống hiến; là trung tâm hàng đầu cả nước về giáo dục - đào tạo, đạt chuẩn liên thông quốc tế; là trung tâm y tế hàng đầu cả nước, có chuyên khoa đạt đẳng cấp quốc tế. Thủ đô Hà Nội là thành phố kết nối toàn cầu, là trung tâm giao lưu, tổ chức các sự kiện quốc tế và các hoạt động đối ngoại quan trọng của đất nước.

Nghị quyết số 15-NQ/TW, ngày 5-5-2022, của Bộ Chính trị, “Về phương hướng, nhiệm vụ phát triển Thủ đô Hà Nội đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” chỉ rõ, Thủ đô Hà Nội là thành phố “Văn hiến - Văn minh - Hiện đại”; trở thành trung tâm, động lực thúc đẩy phát triển vùng đồng bằng sông Hồng, vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và cả nước; hội nhập quốc tế sâu rộng, có sức cạnh tranh cao với khu vực và thế giới, phấn đấu phát triển ngang tầm thủ đô các nước phát triển trong khu vực; tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) bình quân giai đoạn 2021 - 2025 cao hơn mức tăng bình quân chung của cả nước; GRDP giai đoạn 2026 - 2030 tăng 8,0 - 8,5%/năm; GRDP bình quân đầu người đạt 12.000 - 13.000 USD.

Theo báo cáo của Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội, Hà Nội luôn duy trì tăng trưởng cao hơn (ngoại trừ năm 2018) và đóng góp tích cực vào tăng trưởng cả nước. Bình quân giai đoạn 2011 - 2022, tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) của Hà Nội tăng gấp 1,12 lần so với mức tăng chung cả nước (cả nước tăng 5,94%/năm). Quy mô GRDP năm 2022 (theo giá cố định 2010) đạt 772,2 nghìn tỷ đồng, gấp 2,17 lần so với năm 2010. Thu nhập tính theo GRDP tăng lên, bình quân đầu người năm 2022 đạt 141,8 triệu đồng (giá hiện hành) - khoảng 5.950 USD, gấp 1,45 lần cả nước (khoảng 4.110 USD), gấp 3,5 - 3,8 lần so với năm 2008 (37,4 triệu đồng - khoảng 1.697 USD).

Tỷ trọng các ngành dịch vụ, công nghiệp - xây dựng tăng, tỷ trọng ngành nông nghiệp giảm. Năm 2011, cơ cấu ngành kinh tế là dịch vụ chiếm 63%; công nghiệp - xây dựng chiếm 20%; nông nghiệp chiếm 3,6%, thuế sản phẩm 13,4%. Đến năm 2022, cơ cấu ngành kinh tế là dịch vụ, công nghiệp - xây dựng tương ứng là: 63,22%; 24,04% - tăng tương ứng 0,22 điểm % và 4,04 điểm %; nông nghiệp và thuế sản phẩm tương ứng 2,08% và 10,66% - giảm tương ứng 1,52 điểm % và 2,74 điểm %.

Năng suất lao động năm 2022 của Hà Nội đạt 291,3 triệu đồng/lao động (giá hiện hành), gấp 2,34 lần năm 2011 (124,5 triệu đồng/lao động) và gấp 1,6 lần bình quân cả nước (181,1 triệu đồng/lao động). Giai đoạn 2011 - 2015, năng suất các nhân tố tổng hợp (TFP) đóng góp khoảng 36,3% tăng trưởng GRDP (cả nước là 34,1%), giai đoạn 2016 - 2020 đóng góp khoảng 46,0% (cả nước là 44,4%).

Quy hoạch Thủ đô có mục tiêu tổng quát đến năm 2030, Hà Nội là thành phố “Văn hiến, văn minh, hiện đại”, xanh, thông minh, nơi hội tụ tinh hoa văn hóa của cả nước và thế giới; trung tâm đi đầu đối với nghiên cứu, sáng tạo, ứng dụng và chuyển giao khoa học - công nghệ mới; trung tâm, động lực thúc đẩy phát triển vùng đồng bằng sông Hồng; trung tâm kinh tế tài chính lớn, cực tăng trưởng có vai trò dẫn dắt kinh tế của đất nước, có tầm ảnh hưởng trong khu vực; là trung tâm lớn, tiêu biểu, hàng đầu cả nước về giáo dục, đào tạo chất lượng cao, ngang tầm khu vực và quốc tế...

Đến năm 2050, Hà Nội có mức sống và chất lượng cuộc sống cao; kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển toàn diện, đặc sắc, hài hòa; có trình độ phát triển ngang tầm các nước phát triển trong khu vực và trên thế giới; là thành phố kết nối toàn cầu, xanh - thông minh - thanh bình - thịnh vượng; là nơi đáng đến và lưu lại, đáng sống và cống hiến. Quy mô dân số thường trú đến năm 2050 khoảng 13 đến 13,5 triệu người; GRDP bình quân đầu người đạt 45 - 46 nghìn USD; tỷ lệ đô thị hóa 80 - 85%.

Đáng chú ý, quy hoạch xác định cấu trúc không gian phát triển của Thủ đô gồm: 5 không gian phát triển, 5 hành lang và vành đai kinh tế, 5 trục động lực, 5 vùng kinh tế - xã hội, 5 vùng đô thị. Cùng với Thành phố Hồ Chí Minh, Thủ đô Hà Nội đóng vai trò là cực tăng trưởng của đất nước, có vị trí trọng yếu trong tam giác động lực của vùng đồng bằng sông Hồng (Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh) và tứ giác phát triển khu vực miền Bắc (Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh - Thanh Hóa).

Để phát huy tối đa tiềm năng, lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, tài nguyên nhân văn và vị trí địa chiến lược của Thủ đô cho sự phát triển toàn diện, bền vững của địa phương, vùng đồng bằng sông Hồng và cả nước, “Quy hoạch Thủ đô Hà Nội thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050”, không chỉ có ý nghĩa làm căn cứ khoa học và công cụ pháp lý quan trọng đối với quản lý nhà nước và hoạch định chính sách, kiến tạo động lực phát triển Thủ đô, mà còn là kim chỉ nam để phát triển Hà Nội thành trung tâm động lực của vùng đồng bằng sông Hồng, cực tăng trưởng của vùng động lực phía Bắc (Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh), tạo ra sự lan tỏa trong phát triển vùng, liên vùng và cả nước.

Thứ nhất, trên cơ sở Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2021 - 2030 và 6 nghị quyết về phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh 6 vùng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045, cần sớm xây dựng và ban hành chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội cho từng vùng để làm cơ sở cho các địa phương xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển kinh tế - xã hội của địa phương gắn với thúc đẩy liên kết vùng, tránh hiện tượng các cấp chính quyền địa phương đều mong muốn “duy trì cơ cấu sản xuất khép kín” hay “phát triển kinh tế khép kín”.

Thứ hai, cụ thể hóa chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về thúc đẩy liên kết kinh tế vùng một cách thực chất và hiệu quả. Để hiện thực hóa được giải pháp này cần ban hành một văn bản quy phạm pháp luật ở cấp luật hoặc sửa đổi một số văn bản quy phạm pháp luật có tính pháp lý tương đối cao, như nghị quyết của Quốc hội, hoặc nghị định của Chính phủ. Việc thành lập các hội đồng điều phối vùng và ban hành quy chế hoạt động cho các hội đồng điều phối vùng ở các vùng kinh tế - xã hội là yếu tố quyết định việc triển khai hoạt động của các cơ quan Trung ương nhằm điều phối liên kết vùng kinh tế - xã hội.

Thứ ba, thể chế liên kết vùng cần hướng tới thúc đẩy liên kết, tăng cường đầu tư theo vùng, phù hợp với chức năng kinh tế, xã hội, bảo tồn sinh thái, để tạo điều kiện phát triển nhanh hơn các khu vực còn nhiều khó khăn, đặc biệt là vùng biên giới, hải đảo. Nghiên cứu xây dựng đa dạng các mô hình thể chế quản trị, điều phối vùng trên cơ sở lợi ích, các yếu tố liên kết, từ thực tiễn. 

Thứ tư, hoàn thiện thể chế phân công, phân cấp giữa Trung ương và địa phương trong liên kết vùng trên cơ sở làm rõ mối quan hệ giữa phát triển kinh tế vùng, liên kết vùng và quá trình phân cấp để vừa bảo đảm tập trung thống nhất của nền kinh tế, vừa phát huy tính chủ động, sáng tạo của từng địa phương, tránh chồng chéo, gây lãng phí nguồn lực./.