Thực hiện tốt chính sách với người có công với cách mạng, góp phần bảo đảm an sinh xã hội, phát triển bền vững đất nước
TCCS - Gần 76 năm qua kể từ dấu mốc ngày 27-7-1947 được chọn là Ngày Thương binh, liệt sĩ, Đảng, Nhà nước đã ban hành và thực hiện nhiều chủ trương, chính sách lớn tri ân những người có công với cách mạng, thể hiện truyền thống, đạo lý cao đẹp uống nước nhớ nguồn của dân tộc Việt Nam.
Sự quan tâm của Đảng, Nhà nước đối với người có công
Để tưởng nhớ, tri ân công lao trời biển của các anh hùng, liệt sĩ, các thương bệnh binh, vào tháng 6-1947, Chủ tịch Hồ Chí Minh ra chỉ thị cho các ban, ngành chọn một ngày trong năm làm Ngày Thương binh. Thực hiện chỉ thị của Người, một hội nghị trù bị được tổ chức tại Đại Từ (tỉnh Thái Nguyên) thống nhất lấy ngày 27-7 là Ngày Thương binh toàn quốc. Từ năm 1955, Ngày Thương binh toàn quốc được đổi tên thành Ngày Thương binh, liệt sĩ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “Thương binh là những người đã hy sinh gia đình, hy sinh xương máu để bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ đồng bào. Vì lợi ích của Tổ quốc, của đồng bào, mà các đồng chí chịu ốm yếu, què quặt. Vì vậy Tổ quốc, đồng bào phải biết ơn, phải giúp đỡ những người con anh dũng ấy”(1). Nhằm bảo đảm tốt cuộc sống của thương, bệnh binh, thân nhân các gia đình có công với cách mạng, với tư cách người đứng đầu Chính phủ lâm thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký nhiều sắc lệnh quan trọng, như Sắc lệnh số 20-SL, ngày 16-2-1947, quy định chế độ hưu bổng thương tật, tiền tuất cho thân nhân tử sĩ; Sắc lệnh số 58-SL, ngày 6-6-1947, đặt Huân chương Sao vàng, Huân chương Hồ Chí Minh, Huân chương Độc lập và quy định việc tặng thưởng để thưởng hoặc truy tặng cho đoàn thể hay những người có công với nước, với dân hoặc tặng cho các nhân vật ngoại quốc đã có công với nước Việt Nam…
Trước lúc đi xa, trong bản Di chúc, Người căn dặn toàn Đảng, toàn quân, toàn dân phải thực hiện tốt chính sách người có công với cách mạng, kháng chiến. “Đối với những người đã dũng cảm hy sinh một phần xương máu của mình (cán bộ, binh sĩ, dân quân, du kích, thanh niên xung phong...), Đảng, Chính phủ và đồng bào phải tìm mọi cách làm cho họ có nơi ăn chốn ở yên ổn, đồng thời phải mở những lớp dạy nghề thích hợp với mỗi người để họ có thể dần dần “tự lực cánh sinh”. Đối với các liệt sĩ, mỗi địa phương (thành phố, làng, xã) cần xây dựng vườn hoa và bia kỷ niệm ghi sự hy sinh anh dũng của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta”(2). Tư tưởng, tình cảm của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với thương binh, liệt sĩ và gia đình có công với cách mạng là sự kế tục và phát triển những tư tưởng, truyền thống tốt đẹp của dân tộc ta, đó là sự trân trọng, biết ơn những thế hệ đi trước đã cống hiến, hy sinh bảo vệ nền độc lập, tự do; đó là truyền thống “uống nước nhớ nguồn”, trân trọng lịch sử, quá khứ hào hùng của ông cha. Chính truyền thống, giá trị văn hóa đó hun đúc tinh thần đoàn kết, ý chí, nghị lực kiên cường của lớp lớp người Việt Nam “đồng tâm, hiệp lực”, quyết chiến thắng kẻ thù xâm lược, xây dựng đất nước ngày càng “đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.
Trong những năm kháng chiến, mặc dù đất nước gặp nhiều khó khăn nhưng Đảng ta luôn dành sự quan tâm đặc biệt đến việc thực hiện tốt chính sách với người có công. Giai đoạn từ 1947 - 1954, Đảng lãnh đạo Nhà nước ban hành 24 văn bản dưới hình thức sắc lệnh, nghị định, thông tư hướng dẫn về thực hiện chính sách, chế độ đối với người có công. Giai đoạn 1954 - 1975, Đảng lãnh đạo Nhà nước ban hành 184 văn bản pháp luật. Giai đoạn 1975 - 1985, Đảng lãnh đạo Nhà nước ban hành 523 văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến việc thực hiện chế độ ưu đãi người có công với cách mạng. Từ năm 2012 đến nay đã có 69 văn bản quy phạm pháp luật về ưu đãi người có công với cách mạng được ban hành, trong đó có 3 pháp lệnh của Quốc hội, 1 chỉ thị của Bộ Chính trị, 1 chỉ thị của Ban Bí thư, 2 nghị quyết và 11 nghị định của Chính phủ, 10 quyết định của Chủ tịch nước, 2 chỉ thị và 10 quyết định của Thủ tướng Chính phủ, 29 thông tư và thông tư liên tịch của các bộ, ngành.
Qua hơn 36 năm thực hiện công cuộc đổi mới, Đảng và Nhà nước tiếp tục ban hành nhiều quyết sách quan trọng, luôn chú trọng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của người có công; xác định đó là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài của toàn hệ thống chính trị. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII (năm 2021), Đảng ta khẳng định quan điểm nhất quán về thực hiện tốt chính sách với người có công, với quyết tâm chính trị là: “Hoàn thiện và thực hiện tốt luật pháp, chính sách đối với người có công trên cơ sở nguồn lực của Nhà nước và xã hội, bảo đảm người có công và gia đình có mức sống từ trung bình khá trở lên trong địa bàn cư trú”(3).
Cùng với những quan điểm chỉ đạo được thể hiện trong văn kiện các kỳ đại hội, Đảng ta ban hành nhiều chỉ thị, kết luận quan trọng nhằm tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo các cấp chính quyền không ngừng quan tâm, chăm lo, tạo những điều kiện tốt nhất về chế độ, chính sách đối với người có công, như: Chỉ thị số 07-CT/TW, ngày 14-12-2006, của Ban Bí thư “Về tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo công tác thương binh, liệt sĩ, người có công và phong trào “Đền ơn đáp nghĩa”; Chỉ thị số 24-CT/TW, ngày 15-5-2013, của Bộ Chính trị “Về tiếp tục đẩy mạnh công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ từ nay đến năm 2020 và những năm tiếp theo”; Kết luận số 63-KL/TW, ngày 27-5-2013, của Hội nghị Trung ương 7 khóa XI “Một số vấn đề cải cách chính sách tiền lương, bảo hiểm xã hội, trợ cấp ưu đãi người có công và định hướng cải cách đến năm 2020”; Chỉ thị số 14-CT/TW, ngày 19-7-2017, của Ban Bí thư “Về tiếp tục tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác người có công với cách mạng” khẳng định: “Việc chăm lo, thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng là bổn phận, nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội. Đẩy mạnh hơn nữa cuộc vận động Toàn dân chăm sóc các gia đình thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng; ủng hộ Quỹ Đền ơn đáp nghĩa để giúp các gia đình chính sách khắc phục khó khăn, cải thiện cuộc sống”.
Nhằm cụ thể hóa chủ trương, đường lối của Đảng cũng như tạo cơ sở, hành lang pháp lý trong thực thi chính sách đối với người có công, Nhà nước đã ban hành nhiều chính sách quan trọng, như Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng (ban hành lần đầu năm 1994) - đến nay, qua 7 lần sửa đổi vào các năm 1998, 2000, 2002, 2005, 2007, 2012 và gần đây nhất vào ngày 9-12-2020, Quốc hội khóa XIV đã thông qua Pháp lệnh ưu đãi người có công với cách mạng (sửa đổi). Việc sửa đổi, bổ sung Pháp lệnh nhằm hoàn thiện chính sách người có công với cách mạng, giải quyết tốt hơn những vấn đề còn tồn tại từ thực tiễn triển khai chính sách tại địa phương; bổ sung các chế độ, chính sách mới đối với từng diện đối tượng trong điều kiện ngân sách nhà nước cho phép để tiếp tục nâng cao đời sống người có công với cách mạng. Bên cạnh đó, pháp lệnh quy định danh hiệu vinh dự Nhà nước “Bà mẹ Việt Nam Anh hùng”. Nhiều chỉ thị, quyết định, đề án quan trọng khác của Chính phủ đã được ban hành, quán triệt và thực hiện, như chỉ thị về việc thực hiện công tác đào tạo nghề, giải quyết việc làm cho con liệt sĩ, con thương binh nặng, con bệnh binh nặng (năm 2012); chỉ thị về tăng cường chỉ đạo thực hiện chính sách ưu đãi đối với người có công với cách mạng (năm 2016); chỉ thị về tiếp tục tăng cường công tác chăm sóc người có công với cách mạng, thiết thực kỷ niệm 70 năm Ngày Thương binh, liệt sĩ (năm 2017); quyết định hỗ trợ người có công với cách mạng về nhà ở (năm 2013); quyết định phê duyệt đề án xác định hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin (năm 2013); quyết định duyệt đề án tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ đến năm 2020 và những năm tiếp theo (năm 2013); nghị định quy định mức trợ cấp, phụ cấp ưu đãi đối với người có công với cách mạng (năm 2019)…
Những kết quả nổi bật trong thực thi chính sách đối với người có công
Việc triển khai đồng bộ các chính sách đã phát huy hiệu quả rõ rệt trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của người có công, thể hiện truyền thống, đạo lý tốt đẹp của dân tộc.
Đến nay, cả nước đã xác nhận được trên 9,2 triệu người có công, trong đó có trên 1,2 triệu liệt sĩ, gần 140.000 Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng, trên 800.000 thương binh, người hưởng chính sách như thương binh, gần 185.000 bệnh binh, trên 320.000 người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học và con đẻ của người hoạt động kháng chiến bị nhiễm chất độc hóa học. Hiện nay, cả nước có trên 1,2 triệu người có công được hưởng trợ cấp hằng tháng và hơn 280.000 thân nhân người có công đang hưởng trợ cấp tiền tuất hằng tháng. Mức chuẩn trợ cấp, phụ cấp ưu đãi người có công được điều chỉnh tăng phù hợp với lộ trình điều chỉnh tăng mức tiền lương cơ sở. Giai đoạn 2012 - 2022, mức trợ cấp tăng khoảng 40%, đạt 1.624.000 đồng (từ năm 2019), cao hơn mức lương cơ sở của cán bộ, công chức hiện nay (1.490.000 đồng).
Từ năm 2012 đến nay, ngân sách nhà nước chi ưu đãi người có công đều tăng qua các năm. Tổng kinh phí giai đoạn 2012 - 2022 là khoảng 357.373 tỷ đồng. Công tác xã hội hóa, khuyến khích các tổ chức, doanh nghiệp và người dân tham gia vào các hoạt động đền ơn đáp nghĩa được đẩy mạnh, nhờ đó tổng Quỹ Đền ơn đáp nghĩa giai đoạn 2012 - 2021 cả nước đã huy động được gần 7.370 tỷ đồng, trong đó quỹ trung ương đạt gần 45 tỷ đồng, quỹ địa phương hơn 7.320 tỷ đồng(4).
Ngoài trợ cấp thường xuyên, người có công còn được hưởng chế độ chăm sóc sức khỏe, cải thiện nhà ở, ưu đãi trong y tế, giáo dục - đào tạo, sản xuất, kinh doanh, việc làm. Trong giai đoạn từ 2017 - 2021, số xã, phường, thị trấn làm tốt công tác thương binh, liệt sĩ liên tục tăng, từ 96,6% đến 99%; chỉ tiêu mức sống của người có công với cách mạng có mức sống bằng hoặc cao hơn mức sống của người dân nơi cư trú, tăng từ 98% đến 98,6%. Cả nước có tổng số 393.707 hộ người có công cần hỗ trợ về nhà ở (gồm 184.695 hộ xây mới và 209.012 hộ sửa chữa) đã được thẩm tra, cấp từ ngân sách trung ương khoảng 10.654 tỷ đồng.
Thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước, các cấp ủy, chính quyền địa phương, các cơ quan, đoàn thể, doanh nghiệp và đông đảo nhân dân bằng những việc làm cụ thể đã có những đóng góp tích cực vào phong trào chăm sóc thương binh, bệnh binh, gia đình liệt sĩ và người có công, tiêu biểu, như: Phong trào Toàn dân chăm sóc các gia đình thương binh, liệt sĩ và người có công với cách mạng, ủng hộ Quỹ Đền ơn đáp nghĩa; xây dựng nhà tình nghĩa; vườn cây tình nghĩa; sổ tiết kiệm tình nghĩa; phong trào chăm sóc bố, mẹ liệt sĩ già yếu cô đơn, con liệt sĩ mồ côi, phụng dưỡng Bà mẹ Việt Nam Anh hùng… Các phong trào, hoạt động thiết thực đó đã tạo sức lan tỏa, thu hút được sự tham gia của cả cộng đồng, tạo nét đẹp truyền thống của dân tộc. Đến nay, cả nước đã vận động được trên 13.000 tỷ đồng để hỗ trợ gia đình người có công xây dựng mới trên 84.000 căn nhà và sửa chữa trên 69.000 căn nhà tình nghĩa; tặng gần 126.000 sổ tiết kiệm cho gia đình chính sách với tổng số tiền trên 1.000 tỷ đồng và hỗ trợ một số trường hợp đặc biệt khó khăn; 3.625 Bà Mẹ Việt Nam Anh hùng còn sống được các tổ chức nhận chăm sóc, phụng dưỡng suốt đời(5).
Công tác tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ ở trong và ngoài nước, xác định danh tính các liệt sĩ còn thiếu thông tin cũng được các cơ quan chức năng tích cực triển khai thực hiện. Đặc biệt, nhờ sự phát huy thành tựu của công nghệ, truyền thông, internet, công tác tìm kiếm, xác định danh tính, thân nhân của các liệt sĩ đã đem lại nhiều kết quả đáng khích lệ, đáp ứng tốt hơn nguyện vọng của đông đảo người dân. Sự ra đời của các chương trình truyền hình, phát thanh nhắn tìm đồng đội, các website, tổng đài tra cứu và tư vấn thông tin tìm liệt sĩ, sự hỗ trợ của Nhà nước trong việc xác định mẫu ADN của các liệt sĩ và người thân góp phần xoa dịu nỗi đau do chiến tranh để lại, giúp khắc sâu công ơn, tưởng nhớ, tri ân các anh hùng liệt sĩ đã hy sinh cho sự trường tồn của dân tộc. Qua triển khai thực hiện các Đề án xác định hài cốt liệt sĩ còn thiếu thông tin (ban hành theo Quyết định số 150/QĐ-TTg, ngày 14-1-2013, của Thủ tướng Chính phủ) và Đề án tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ từ này đến năm 2020 và những năm tiếp theo (ban hành theo Quyết định số 1237/QĐ-TTg, ngày 27-7-2013, của Thủ tướng Chính phủ), cả nước đã tìm kiếm, quy tập được 939.462 hài cốt liệt sĩ; an táng tại 3.077 nghĩa trang. Việc xây dựng, tu bổ nghĩa trang, công trình tưởng niệm liệt sĩ được các cấp, các ngành và người dân địa phương chú trọng. Cả nước hiện có trên 3.200 nghĩa trang liệt sĩ và trên 3.000 các công trình ghi công liệt sĩ. Nhiều công trình đã trở thành địa chỉ văn hóa, có giá trị về mỹ thuật, giáo dục truyền thống, như: Nghĩa trang Điện Biên Phủ; Nghĩa trang Liệt sĩ Trường Sơn; Nghĩa trang Đường 9; Đền Liệt sĩ Bến Dược, Khu tưởng niệm liệt sĩ thanh niên xung phong tại ngã ba Đồng Lộc, Truông Bồn, tỉnh Nghệ An...
Nhằm bảo đảm tốt quyền lợi, chế độ của người từng tham gia kháng chiến và rà soát, bổ sung thêm đối tượng được nhận chế độ, chính sách cũng như giải quyết những hồ sơ tồn đọng, trong những năm qua, ngành lao động, thương binh và xã hội các cấp đã tích cực triển khai nhiều giải pháp đồng bộ, đáp ứng tốt yêu cầu, nguyện vọng chính đáng của người có công với cách mạng. Theo đó, từ năm 2017 đến năm 2020, cơ quan chức năng cả nước đã tiếp nhận 6.722 hồ sơ tự kê khai là người có công chưa được hưởng chính sách ưu đãi. Sau khi xem xét, Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội đã trình Thủ tướng Chính phủ công nhận và cấp bằng Tổ quốc ghi công đối với 2.204 liệt sĩ, trên 2.600 thương binh, người hưởng chính sách như thương binh.
Hằng năm, vào dịp kỷ niệm Ngày Thương binh, liệt sĩ (27-7), các cơ quan của Đảng, Nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội, chính quyền địa phương và nhân dân cả nước đều tổ chức những chương trình, hoạt động về nguồn, thể hiện lòng biết ơn, tri ân với những người có công với cách mạng, tạo ra những đợt sinh hoạt chính trị sâu rộng mang ý nghĩa nhân văn, thể hiện tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, phát huy truyền thống yêu nước nồng nàn của dân tộc Việt Nam.
Một số nhiệm vụ trong giai đoạn hiện nay
Để thực hiện tốt chính sách với người có công, trong giai đoạn tới cần tập trung triển khai một số nhiệm vụ trọng tâm:
Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của toàn thể nhân dân về những hy sinh, cống hiến to lớn của những người có công với cách mạng. Thông qua các hoạt động tưởng nhớ, tri ân, quan tâm đến những anh hùng, liệt sĩ, thương, bệnh binh, gia đình chính sách để khơi dậy lòng yêu nước, tinh thần đại đoàn kết dân tộc, ý thức trách nhiệm cá nhân với lịch sử và khát vọng cống hiến của tuổi trẻ cho Tổ quốc, non sông.
Việc tuyên truyền phải được tiến hành thường xuyên, liên tục với những đổi mới về nội dung và hình thức thể hiện, như thông qua các chương trình nghệ thuật, các hoạt động văn hóa, văn nghệ, các cuộc thi viết, vẽ, nhiếp ảnh, triển lãm nghệ thuật, sáng tác nghệ thuật, thi trắc nghiệm bằng hình thức trực tuyến về chủ đề “Đền ơn đáp nghĩa, uống nước nhớ nguồn”. Thời gian qua, nhiều hoạt động hướng về ngày Thương binh, liệt sĩ đã được tổ chức, tạo sức lan tỏa sâu rộng trong đời sống cộng đồng, như: Triển lãm “75 năm đền ơn đáp nghĩa” do Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch tổ chức; Cuộc thi “Tìm hiểu lịch sử, ý nghĩa ngày Thương binh, liệt sĩ 27-7” do Ban Thường vụ Đoàn Văn phòng Trung ương Đảng phát động; Cuộc thi ảnh “Đền ơn đáp nghĩa - Uống nước nhớ nguồn” do Đài Phát thanh - Truyền hình và Hội Văn học nghệ thuật Thanh Hóa tổ chức; cuộc thi báo chí về đề tài “Đền ơn đáp nghĩa” do Hội Nhà báo và Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh Bắc Giang tổ chức; Cuộc thi viết “Người có công tiêu biểu và công tác đền ơn đáp nghĩa” do Báo Quảng Trị và Sở Lao động - Thương binh và Xã hội tỉnh tổ chức...
Hai là, tiếp tục bổ sung, hoàn thiện cơ chế, chính sách, khung khổ pháp lý về ưu đãi với người có công theo hướng hiện đại, bao trùm, toàn diện. Chính sách ưu đãi với người có công phải được thực hiện đồng bộ với các chính sách xã hội khác theo hướng hài hòa, hợp lý, bảo đảm an sinh xã hội, với mục tiêu không ngừng nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho thân nhân và các gia đình cách mạng. Quan tâm hơn nữa đến các gia đình người có công có hoàn cảnh khó khăn, người có công hiện đang sống cô đơn, không nơi nương tựa, các gia đình người có công vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa.
Ba là, giải quyết tốt những vấn đề tồn đọng, những khó khăn, vướng mắc liên quan đến chính sách với người có công, bảo đảm khách quan, công bằng, minh bạch. Đẩy mạnh ứng dụng thành tựu khoa học - kỹ thuật của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư trong quản lý dữ liệu thông tin, hình ảnh, kỷ vật về các anh hùng, liệt sĩ, thương bệnh binh; xác định ADN đối với các trường hợp liệt sĩ chưa rõ thông tin. Đồng thời lan tỏa những thông điệp nhân văn, những chính sách ưu việt của Đảng, Nhà nước đối với người có công với cách mạng qua các chương trình truyền hình, phát thanh, các kênh tương tác trên môi trường số.
Phát triển và mở rộng các kênh tương tác, chia sẻ, cung cấp thông tin và phần mộ của các liệt sĩ. Hiện nay, bên cạnh trang web nhắn tìm đồng đội do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội phối hợp với Trung tâm Marin (Trung tâm tư vấn và trợ giúp pháp lý cho gia đình liệt sĩ do các cựu sinh viên khoa Toán - Tin, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc gia Hà Nội) thành lập, một số tỉnh, thành phố cũng đã xây dựng các chuyên mục, chương trình trên các kênh truyền thông, thành lập các trang điện tử để người dân có thể chia sẻ, tìm kiếm thông tin, hình ảnh về các anh hùng, liệt sĩ, như tỉnh Nghệ An đã xây dựng trang web.ngheantimdongdoi.gov.vn. Đây là kết quả từ đề tài nghiên cứu: “Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc tìm kiếm và quản lý thông tin về liệt sĩ (là bộ đội và thanh niên xung phong) hy sinh trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước trên địa bàn tỉnh Nghệ An” do Đảng ủy, Bộ Chỉ huy Quân sự tỉnh Nghệ An triển khai thực hiện với mục đích người dân có thể trực tiếp cung cấp thông tin về liệt sĩ và mộ phần của các liệt sĩ đã hy sinh.
Kịp thời phát hiện, ngăn chặn những hành vi lợi dụng kẽ hở của cơ chế, chính sách, làm giả hồ sơ giấy tờ, bệnh án để trục lợi, hưởng chế độ; những hành vi mê tín, dị đoan trong tìm kiếm, xác định thông tin liệt sĩ, củng cố niềm tin trong nhân dân.
Bốn là, chính quyền các cấp cần làm tốt công tác quy hoạch, dành quỹ đất cần thiết để mở rộng không gian các nghĩa trang liệt sĩ, các khu tưởng niệm. Bố trí nguồn vốn cần thiết để tu bổ, tôn tạo nghĩa trang và các công trình ghi nhớ công lao của các anh hùng, liệt sĩ. Xây dựng và chỉnh trang không gian, cảnh quan nghĩa trang liệt sĩ bảo đảm khang trang, sạch đẹp, thể hiện sự thiêng liêng, tôn kính để nơi đây trở thành “địa chỉ đỏ” giáo dục truyền thống lịch sử, cách mạng cho muôn đời sau.
Bên cạnh nguồn vốn nhà nước, cần thực hiện tốt chính sách xã hội hóa, huy động sự tham gia, đóng góp của các cá nhân, tổ chức, cộng đồng doanh nghiệp trong việc thực hiện tốt chính sách đền ơn đáp nghĩa cũng như xây dựng những công trình thiết thực để tưởng nhớ, tri ân những người đã cống hiến, hy sinh vì nền độc lập, tự do của Tổ quốc, vì hạnh phúc của nhân dân.
Gần 76 năm qua, với sự quan tâm, chăm lo của Đảng, Nhà nước, sự tham gia giúp đỡ tích cực của cộng đồng, cuộc sống của người có công ngày càng được cải thiện, nâng cao; sự trân trọng, hướng về cội nguồn lịch sử với những giá trị văn hóa tinh thần tốt đẹp đã và đang tạo ra động lực, niềm tin, sức mạnh để thế hệ hôm nay tiếp tục phát huy truyền thống cách mạng, xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa./.
-----------------------
(1) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2011, t. 5, 204
(2) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 15, tr. 616
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 148 - 149
(4), (5) Nguyễn Bá Hoan: “Chính sách người có công trong chính sách xã hội ở Việt Nam thời kỳ phát triển mới”, Tạp chí Cộng sản chuyên đề, số 7 năm 2023, tr. 93 - 94
Tỉnh Hà Giang: Chương trình xã hội hóa xây nhà ở người có công, cựu chiến binh, hộ nghèo vượt xa mong đợi  (21/12/2022)
Thủ tướng Chính phủ Phạm Minh Chính: Tìm kiếm, quy tập hài cốt liệt sĩ không chỉ là trách nhiệm mà còn là mệnh lệnh từ trái tim  (28/07/2022)
Hà Nội nỗ lực thực hiện chính sách ưu đãi người có công với cách mạng  (03/10/2021)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
- Bảo đảm an ninh con người của chính quyền đô thị: Kinh nghiệm của một số quốc gia và hàm ý chính sách đối với Việt Nam
- Phát huy vai trò trụ cột của đối ngoại đảng, ngoại giao nhà nước, đối ngoại nhân dân trong phối hợp xây dựng nền ngoại giao Việt Nam toàn diện, hiện đại, thực hiện hiệu quả mục tiêu đối ngoại của đất nước
- Tăng cường công tác dân vận nhằm thực hiện hiệu quả chính sách xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc trong tình hình mới
-
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX