Phát huy giá trị di sản văn hóa vùng biển, đảo nước ta hiện nay
TCCS - Nước ta có vùng biển, đảo rộng lớn với hơn 3.200km bờ biển cùng hàng ngàn đảo lớn, nhỏ. Đây cũng chính là không gian sinh tồn của các thế hệ người dân Việt Nam, kết tinh nhiều giá trị văn hóa đặc sắc thông qua hệ thống các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể phong phú, đa dạng, độc đáo. Nguồn tài nguyên quý giá này cần được bảo tồn, phát huy trong phát triển kinh tế - xã hội, vừa góp phần gìn giữ bản sắc văn hóa, vừa mang lại sinh kế cho người dân, thúc đẩy phát triển bền vững kinh tế biển, bảo đảm quốc phòng, an ninh.
1- Đảng và Nhà nước ta luôn coi trọng, đề cao giá trị các di sản văn hóa. Hệ thống di sản văn hóa đó thể hiện bản lĩnh, trí tuệ, cốt cách con người Việt Nam, hàm chứa những giá trị cao về lịch sử, khoa học, giáo dục,… là nguồn tài nguyên vô tận để phát triển các ngành công nghiệp văn hóa với những sản phẩm đa dạng, độc đáo, có giá trị kinh tế cao, đóng góp ngày càng lớn vào GDP đất nước.
Các di sản văn hóa tại vùng biển, đảo là một bộ phận không thể tách rời di sản văn hóa Việt Nam. Với 21/34 tỉnh, thành phố trên cả nước có biển, đảo, hệ thống di sản văn hóa vùng biển, đảo nước ta rất phong phú, đặc sắc và giữ vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội của người dân. Theo thống kê chưa đầy đủ, vùng biển, đảo nước ta có hơn 1.000 di sản, di tích lịch sử, văn hóa, danh thắng với kiến trúc độc đáo, như đình, đền, chùa, miếu...; cùng hệ thống phong phú các di tích khảo cổ minh chứng cho nền văn hóa lâu đời của dân tộc ta (văn hóa Đông Sơn ở Bắc Bộ, văn hóa Sa Huỳnh ở Trung Bộ, văn hóa Óc Eo ở Nam Bộ); các thương cảng cổ, như Vân Đồn (tỉnh Quảng Ninh), Hội An, Cù Lao Chàm (nay thuộc thành phố Đà Nẵng), Thị Nại (nay thuộc tỉnh Gia Lai), Óc Eo (tỉnh An Giang) từng là những trung tâm cảng thị sầm uất, quan trọng và nổi tiếng trong hải trình thương mại cổ đại ở ba miền Bắc, Trung, Nam.
Mỗi di sản văn hóa vùng biển, đảo đều gắn với những tín ngưỡng, tôn giáo và là nơi tổ chức thực hành tín ngưỡng, nơi ghi nhớ, tưởng niệm công lao những người có công dựng nước, giữ nước, giúp dân khai phá biển, đảo suốt chiều dài lịch sử. Đó là những lăng, miếu thờ “ông Nam Hải” đồ sộ; Lăng cá Ông ở nhiều tỉnh, thành phố; đình Quan Lạn, đình Trà Cổ (tỉnh Quảng Ninh); đền thờ thần Độc Cước (tỉnh Thanh Hóa); đền Cờn (tỉnh Nghệ An); đình Lý Hải, Âm Linh Tự (đảo Lý Sơn, tỉnh Quảng Ngãi); lăng cá Ông ở các tỉnh miền Trung; đền Trần Khánh Dư (Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh); đền thờ Nguyễn Trung Trực (Rạch Giá, nay thuộc tỉnh An Giang); Khu Di tích Bạch Đằng (tỉnh Quảng Ninh và thành phố Hải Phòng); Bến tàu không số (thành phố Hải Phòng); khu địa đạo Vịnh Mốc (tỉnh Quảng Trị); đường Hồ Chí Minh trên biển; khu Rạch Gầm - Xoài Mút; căn cứ Năm Căn tại Cà Mau; khu căn cứ Trung ương Cục miền Nam; các khu di tích Nhà tù Côn Đảo, Nhà tù Phú Quốc...
Bên cạnh đó, hệ thống di sản văn hóa phi vật thể trong kho tàng di sản văn hóa vùng biển, đảo Việt Nam vô cùng phong phú, thể hiện dưới nhiều dạng thức, như những kinh nghiệm sống được tích lũy và ứng dụng thông qua sinh hoạt thường nhật và lao động, sản xuất của cư dân biển, đảo; những tín ngưỡng, dân ca, truyền thuyết, thần thoại được sáng tạo và tiếp thu từ nhiều nền văn hóa và văn minh; những phong tục, tập quán, nghệ thuật trình diễn, sinh hoạt văn nghệ, trò chơi dân gian, các ngành, nghề thủ công truyền thống với nhiều sản phẩm độc đáo; những tri thức giàu giá trị về y, dược cổ truyền, về văn hóa ẩm thực, về trang phục truyền thống…, tất cả tạo nên một không gian văn hóa làng quê đặc sắc, tiêu biểu cho vùng nông thôn biển, đảo của cộng đồng các dân tộc Việt Nam trong quá trình sử dụng, khai thác biển. Đặc biệt, hệ thống lễ hội vô cùng phong phú là di sản văn hóa đặc sắc của cư dân vùng biển, hải đảo nước ta.
Di sản văn hóa biển, đảo Việt Nam còn là những bộ sách sử, những châu bản, mộc bản, bản đồ, hải đồ, trong đó nổi bật là Châu bản triều Nguyễn vừa được Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hợp quốc (UNESCO) vinh danh là Di sản ký ức thế giới, là những tài liệu vô cùng ý nghĩa, góp phần khẳng định chủ quyền của đất nước, nhân dân ta với hai quần đảo Trường Sa và Hoàng Sa. Tất cả những di sản văn hóa đó đã trở thành nguồn tài nguyên nhân văn giàu giá trị, là một trong những lợi thế để các tỉnh ven biển, đảo nước ta phát triển kinh tế - xã hội.
2- Trong đường lối, chủ trương phát triển kinh tế - xã hội của nước ta nói chung, Đảng ta luôn đề cao tầm quan trọng của việc bảo tồn và phát huy giá trị các di sản văn hóa, đồng thời nhấn mạnh cần có sự gắn kết hài hòa giữa bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững.
Nghị quyết số 36-NQ/TW, ngày 22-10-2018, của Hội nghị Trung ương 8 khóa XII về “Chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045” nêu rõ quan điểm: “Biển là bộ phận cấu thành chủ quyền thiêng liêng của Tổ quốc, là không gian sinh tồn, cửa ngõ giao lưu quốc tế, gắn bó mật thiết với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc... Việt Nam phải trở thành quốc gia mạnh về biển, giàu từ biển, phát triển bền vững, thịnh vượng, an ninh và an toàn... Phát triển bền vững kinh tế biển trên nền tảng tăng trưởng xanh, bảo tồn đa dạng sinh học, các hệ sinh thái biển; bảo đảm hài hòa giữa các hệ sinh thái kinh tế và tự nhiên, giữa bảo tồn và phát triển(1).
Nghị quyết số 33-NQ/TW, ngày 9-6-2014, của Hội nghị Trung ương 9 khóa XI “Về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước” xác định mục tiêu xây dựng “văn hóa thực sự trở thành nền tảng tinh thần vững chắc của xã hội, là sức mạnh nội sinh quan trọng bảo đảm sự phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc Tổ quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”(2). Đồng thời, Nghị quyết nhấn mạnh quan điểm: “Phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa; cần chú ý đầy đủ đến yếu tố văn hóa và con người trong phát triển kinh tế”(3).
Nghị quyết cũng nhấn mạnh, bên cạnh nhiệm vụ bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử - văn hóa tiêu biểu, phục vụ giáo dục truyền thống và phát triển kinh tế, gắn kết bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển du lịch, cần gắn các hoạt động văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội; xây dựng cơ chế để giải quyết hợp lý, hài hòa giữa bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội. Trong số các giải pháp mà Nghị quyết đưa ra, có đề cập đến yêu cầu nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước về văn hóa; xử lý hài hòa mối quan hệ giữa phát triển kinh tế và phát triển văn hóa. Nghị quyết số 08-NQ/TW, ngày 16-1-2017, của Bộ Chính trị “Về phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn” cũng khẳng định quan điểm phát triển du lịch bền vững; bảo tồn và phát huy các di sản văn hóa và các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc; bảo vệ môi trường và thiên nhiên.
Thể chế hóa chủ trương của Đảng, Nhà nước đã ban hành chương trình, chiến lược phát triển văn hóa, trong đó có di sản văn hóa biển, đảo, cùng hệ thống các văn bản luật liên quan. “Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2020” (được phê duyệt tại Quyết định số 581/QĐ-TTg, ngày 6-5-2009 của Thủ tướng Chính phủ) xác định mục tiêu tạo mọi điều kiện nâng cao mức hưởng thụ và tham gia hoạt động, sáng tạo văn hóa của nhân dân; phấn đấu từng bước thu hẹp sự chênh lệch về hưởng thụ văn hóa, nghệ thuật giữa thành thị và nông thôn, giữa đồng bằng và miền núi, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo. “Chiến lược phát triển văn hóa đến năm 2030” (được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại Quyết định số 1909/QĐ-TTg, ngày 12-11-2021) nhấn mạnh mục tiêu xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam toàn diện, phù hợp với xu thế thời đại, yêu cầu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và những tác động to lớn với kinh tế, xã hội; không ngừng nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân, từng bước thu hẹp khoảng cách về hưởng thụ văn hóa giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, miền. Nghị quyết cũng nhấn mạnh đến giải pháp tổ chức đa dạng các chương trình văn hóa, nghệ thuật phục vụ đồng bào vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng dân tộc thiểu số; đầu tư bảo quản, tu bổ, phục hồi các di tích quốc gia đặc biệt, di sản thế giới, di tích lịch sử - văn hóa có giá trị tiêu biểu, phục vụ giáo dục truyền thống và phát triển kinh tế; gắn kết bảo tồn, phát huy di sản văn hóa với phát triển du lịch.
3- Di sản văn hóa là nguồn tài nguyên nhân văn, kho báu quý giá, chất liệu, nguồn vốn, động lực phát triển kinh tế - xã hội của vùng biển, đảo nước ta. Thông qua các hoạt động kinh tế - xã hội, trọng tâm là hoạt động du lịch, các giá trị di sản văn hóa vùng biển, đảo có cơ hội được lan tỏa và quảng bá rộng rãi đến đông đảo du khách trong và ngoài nước; qua đó góp phần định vị các thương hiệu vùng, miền, không chỉ mang lại lợi ích cho các doanh nghiệp, mà còn tạo việc làm, sinh kế, góp phần nâng cao thu nhập và chất lượng cuộc sống của cư dân biển, đảo. Lợi ích đó cũng được chia sẻ cho việc tái đầu tư, bảo tồn, tôn tạo, tôn vinh, phục dựng, quản lý và phát huy giá trị các di sản văn hóa.
Trên cơ sở xác định những thế mạnh từ kho tàng di sản văn hóa đặc sắc vùng biển, đảo, thời gian qua, các tỉnh, thành phố ven biển nước ta đã có nhiều nỗ lực trong việc gắn kết giữa bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội địa phương, góp phần thúc đẩy địa phương phát triển bền vững. Du lịch di sản gắn với du lịch biển, đảo với nhiều sản phẩm du lịch hấp dẫn đã và đang thu hút nhiều khách du lịch trong và ngoài nước. Tuy nhiên, thời gian qua, việc tăng trưởng “nóng” và phát triển du lịch thiếu kiểm soát ở một số địa phương đã và đang tác động tiêu cực tới di sản văn hóa, để lại những hệ lụy đáng báo động. Sự khai thác theo hướng thương mại hóa quá mức, sự quá tải về khách du lịch, sự lạm dụng di sản, làm mới thiếu kiến thức văn hóa, lịch sử,… gây nên tình trạng di sản một số nơi xuống cấp, thậm chí làm biến dạng, làm giảm giá trị. Nhiều nơi khai thác di sản văn hóa và tài nguyên biển, đảo thiếu định hướng, gây ô nhiễm môi trường. Truyền thống, phong tục, tập quán, bản sắc văn hóa ở một số địa phương bị mai một. Mặt trái của kinh tế thị trường, quá trình hội nhập quốc tế có những tác động tiêu cực đến các di tích lịch sử, văn hóa và môi trường cảnh quan vùng biển, đảo. Bên cạnh đó, một bộ phận không nhỏ người dân chưa nhận thức đầy đủ vai trò chủ thể đối với các di sản văn hóa. Ở không ít địa phương, nhiều người dân vẫn chưa được hưởng lợi từ việc phát huy giá trị di sản, do đó chưa chủ động, tự nguyện bảo tồn di sản văn hóa.
Để bảo đảm hài hòa mối quan hệ giữa bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa với phát triển kinh tế - xã hội ở vùng biển, đảo nói riêng và cả nước nói chung, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững, cần thực hiện đồng bộ một số giải pháp sau:
Một là, nâng cao hiệu quả hoạt động tuyên truyền nhằm nâng cao nhận thức của các cấp ủy, chính quyền và nhân dân vùng biển, đảo nói riêng và cả nước nói chung về vị trí, vai trò của việc bảo tồn và phát huy di sản văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội, cũng như yêu cầu khách quan của việc bảo đảm hài hòa mối quan hệ. Các cấp ủy, chính quyền lãnh đạo, chỉ đạo các cơ quan, đơn vị liên quan thông qua các hình thức tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, thông tin cơ sở, phát huy mặt tích cực của các phương tiện truyền thông xã hội, các hoạt động giáo dục, triển lãm, bảo tàng, lễ hội cùng các sinh hoạt văn hóa khác góp phần nâng cao tình yêu, lòng tự hào, trách nhiệm của cấp ủy, chính quyền, cộng đồng cư dân biển, đảo về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình khai thác nguồn tài nguyên văn hóa quý giá, tạo sinh kế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người dân, hướng tới mục tiêu phát triển bền vững và bảo vệ vững chắc chủ quyền biển, đảo thiêng liêng của Tổ quốc.
Hai là, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về di sản văn hóa vùng biển, đảo. Hoàn thiện thể chế, chính sách, chiến lược, quy hoạch, kế hoạch về phát triển bền vững kinh tế biển, trong đó có du lịch. Rà soát, bổ sung và xây dựng mới đồng bộ các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch liên quan đến biển, đảo theo hướng quản lý tổng hợp, phù hợp với hệ sinh thái biển, bảo đảm sự gắn kết hài hòa, đồng bộ giữa bảo tồn và phát triển. Tăng cường phối hợp để tạo sự thống nhất, đồng bộ, liên ngành trong việc xây dựng và điều chỉnh các quy hoạch phát triển bền vững vùng biển, đảo gắn với các biện pháp phù hợp để bảo vệ và khai thác có hiệu quả kho tàng di sản văn hóa tại các tỉnh, thành phố ven biển và bảo vệ môi trường biển. Tập trung đầu tư bảo quản, tu bổ, phục hồi các di sản thế giới, di tích lịch sử - văn hóa có giá trị tiêu biểu vùng biển, đảo. Kiểm kê, lập và công bố danh mục các di sản văn hóa vật thể, phi vật thể ở vùng ven biển và trên các đảo, lập các bảo tàng văn hóa biển. Chủ động phân cấp quản lý di tích cho chính quyền và cộng đồng cư dân địa phương phù hợp với thực tiễn. Xây dựng chính sách về xã hội hóa hoạt động bảo tồn, tôn tạo di tích, trong đó quy định về quyền lợi và trách nhiệm của người đóng góp vốn trùng tu tôn tạo, quyền lợi và trách nhiệm của chính quyền địa phương quản lý di tích… Xây dựng “Quỹ trùng tu tôn tạo di sản”, trong đó quy định rõ nguồn thu từ du lịch đóng góp và các quy định về quản lý quỹ minh bạch, công khai, khoa học và hiệu quả. Đổi mới và nâng cao hoạt động đãi ngộ, tôn vinh nghệ nhân; tạo điều kiện cho nghệ nhân tham gia truyền dạy, quảng bá di sản trong cộng đồng ở các địa phương ven biển và trên cả nước. Gắn kết công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa biển, đảo với sự nghiệp bảo vệ chủ quyền Tổ quốc trên Biển Đông.
Ba là, phát huy vai trò của cộng đồng cư dân vùng biển, đảo trong quá trình bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa và phát triển kinh tế - xã hội. Khuyến khích cộng đồng cùng tham gia quản lý di sản. Nâng cao hiểu biết của các chủ thể di sản văn hóa (bao gồm cả hộ gia đình) về vai trò của ứng xử văn hóa, đạo đức kinh doanh, lòng tự trọng dân tộc trong hoạt động khai thác di sản, kinh doanh du lịch và cung cấp các dịch vụ liên quan, trong quảng bá, giới thiệu về di sản văn hóa với du khách. Đề ra các chính sách hỗ trợ cuộc sống người dân ở các làng còn lưu giữ được các giá trị văn hóa đặc trưng vùng biển, đảo trong quá trình chuyển đổi kinh tế từ nông nghiệp, ngư nghiệp sang dịch vụ du lịch, hình thành các sản phẩm du lịch đặc sắc của cư dân biển, đảo. Đặc biệt, cần có chính sách khuyến khích việc duy trì, phục hồi và phát triển nghề thủ công truyền thống có giá trị tiêu biểu hoặc có nguy cơ bị mai một, xây dựng thành các sản phẩm du lịch đặc sắc, góp phần bảo vệ lợi ích chính đáng của người dân.
Bốn là, xây dựng cơ chế phối hợp và phân chia nguồn lợi từ du lịch di sản vùng biển, đảo.
Cần thống nhất quan điểm bảo tồn di sản là nguyên tắc hàng đầu, không “hy sinh” di sản để phát triển du lịch bằng mọi giá, đặc biệt chú ý đến vòng đời, “tuổi thọ” của điểm và khu du lịch, chống sự quá tải trong việc đón khách. Cần xây dựng chiến lược sử dụng tốt nhất các tài nguyên môi trường, xác định môi trường tự nhiên và cảnh quan sinh thái là điều kiện tiên quyết trong phát triển du lịch tương lai; giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích của các bên tham gia hoạt động du lịch, trong đó đề cao vai trò chủ nhân của cộng đồng địa phương trong hưởng lợi. Bảo đảm hoạt động kinh tế tồn tại lâu dài, định hướng cộng đồng cư dân địa phương vừa thực hành kinh tế truyền thống, vừa tham gia kinh doanh du lịch. Bảo đảm quyền tiếp cận, tham gia, hưởng lợi và trách nhiệm của người dân đối với biển, đảo một cách công bằng, bình đẳng. Lợi nhuận từ du lịch cần phân bổ công bằng, đóng góp vào công tác xóa đói, giảm nghèo ở các địa phương vùng biển, đảo, góp phần cân bằng giữa phát triển kinh tế truyền thống với phát triển du lịch.
Năm là, xây dựng chiến lược phát triển du lịch văn hóa phù hợp, trong đó lựa chọn sản phẩm du lịch đặc thù dựa trên phát huy giá trị di sản văn hóa. Chú trọng đầu tư hạ tầng du lịch; khuyến khích, tạo điều kiện để các thành phần kinh tế tham gia phát triển du lịch sinh thái, thám hiểm khoa học, du lịch cộng đồng, du lịch nghỉ dưỡng biển chất lượng cao tại các vùng ven biển; xây dựng, phát triển, đa dạng hóa các sản phẩm, chuỗi sản phẩm, thương hiệu du lịch biển đẳng cấp quốc tế trên cơ sở bảo tồn đa dạng sinh học, phát huy giá trị di sản thiên nhiên, văn hóa, lịch sử đặc sắc của các vùng biển, đảo nước ta.
Các địa phương cần xây dựng, hoàn thiện quy hoạch các điểm du lịch cộng đồng, du lịch di sản, không để người dân tự phát, tự xây dựng các điểm du lịch cộng đồng. Xây dựng sản phẩm du lịch mang linh hồn văn hóa truyền thống, có nhiều yếu tố đặc sắc, đặc thù cho vùng biển, đảo, của từng dân tộc, từ đó gia tăng sức hấp dẫn và khả năng cạnh tranh của các sản phẩm du lịch. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực ngành du lịch, chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng kiến thức về du lịch văn hóa, du lịch di sản. Thúc đẩy các hoạt động hợp tác quốc tế về quản lý, sử dụng, bảo tồn bền vững các giá trị văn hóa biển, đảo trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay./.
-------------------------
(1) Văn kiện Hội nghị lần thứ tám Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2018, tr. 81, 82
(2) Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2014, tr. 47
(3) Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, Sđd, tr. 47
Thúc đẩy khởi nghiệp đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực văn hóa ở Việt Nam hiện nay  (31/07/2025)
Xu hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài của Liên minh châu Âu: Cơ hội và thách thức đối với Việt Nam  (19/07/2025)
Phát triển kinh tế xanh trong phục dựng, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa từ góc nhìn quản trị địa phương  (16/07/2025)
Giải pháp thực hiện các chính sách kinh tế - liên quan đến mối quan hệ dân tộc, tộc người với tôn giáo  (30/06/2025)
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Kinh nghiệm thực hiện mô hình “bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, tổ dân phố” ở Trung Quốc - Vận dụng cho thực tiễn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
- Phát triển văn hóa gắn với phát triển kinh tế và phát triển xã hội: Quá trình tất yếu, hướng đích của hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
- Phụ nữ Việt Nam trong nền kinh tế số
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm