Phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam từ phương diện xã hội: Thực trạng, vấn đề đặt ra và giải pháp
TCCS - Phát triển du lịch bền vững là một chủ trương lớn, nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, không chỉ nhằm mục tiêu tăng trưởng kinh tế mà còn hướng tới sự phát triển toàn diện, bao trùm, trong đó trụ cột xã hội giữ vai trò nền tảng, bảo đảm hài hòa lợi ích, nâng cao chất lượng cuộc sống người dân và bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa dân tộc. Bài viết tập trung phân tích sâu sắc các khía cạnh xã hội của phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam, chỉ rõ những thành tựu, hạn chế, từ đó đề xuất hệ thống giải pháp đồng bộ nhằm thực hiện thành công mục tiêu chiến lược đã đề ra.
Đại hội XIII của Đảng nhấn mạnh: một trong mười mối quan hệ lớn là mối quan hệ “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”(1). Quán triệt tinh thần đó, ngành du lịch Việt Nam được định hướng trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, đóng góp quan trọng vào sự phát triển chung của đất nước. Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2030 nhấn mạnh: “Phát triển du lịch bền vững trên nền tảng tăng trưởng xanh; tối đa hóa sự đóng góp của du lịch cho các mục tiêu phát triển bền vững của Liên hợp quốc; quản lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường, chủ động thích ứng với biến đổi khí hậu; bảo đảm an sinh xã hội và quốc phòng, an ninh”(2).
Trong những năm qua, ngành du lịch đã có bước phát triển vượt bậc, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế, tạo việc làm, chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Tuy nhiên, sự phát triển nhanh chóng này cũng bộc lộ những bất cập, đặc biệt là các vấn đề liên quan đến phương diện xã hội. Quá trình phát triển du lịch nếu không được định hướng và quản lý tốt có thể dẫn đến nhiều hệ lụy, như gia tăng khoảng cách giàu nghèo, xung đột về lợi ích trong cộng đồng, thương mại hóa văn hóa địa phương, nảy sinh các tệ nạn xã hội và gây áp lực lên hạ tầng xã hội. Thực tiễn cho thấy, sự phát triển bền vững của ngành du lịch có mối liên hệ hữu cơ, không thể tách rời với sự ổn định và phát triển của xã hội tại các địa phương. Do đó, việc nhận diện đúng, đánh giá khách quan và đề ra các giải pháp hữu hiệu để thúc đẩy phát triển du lịch bền vững từ phương diện xã hội là một yêu cầu cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
Các mục tiêu cơ bản của phát triển du lịch bền vững về xã hội
Phát triển cho cộng đồng địa phương: Tối đa hóa đóng góp của du lịch vào sự thịnh vượng kinh tế địa phương. Khuyến khích tiêu dùng và giữ lại phần lớn chi tiêu của du khách tại chỗ. Ưu tiên tuyển dụng, đào tạo lao động địa phương; sử dụng hàng hóa, dịch vụ sản xuất tại chỗ khi phù hợp. Hỗ trợ các cơ sở sản xuất nhỏ phát triển sản phẩm bền vững gắn với đặc trưng tự nhiên, lịch sử, văn hóa. Bảo đảm quy tắc ứng xử tôn trọng cộng đồng địa phương và tích cực tham gia các sáng kiến phát triển hạ tầng xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Tạo việc làm và nâng cao thu nhập: Gia tăng số lượng và chất lượng việc làm do ngành du lịch tạo ra; bảo đảm cơ hội việc làm bình đẳng, không phân biệt giới tính hay thành phần xã hội. Các hoạt động du lịch không làm ảnh hưởng đến sinh kế của người dân địa phương.
Công bằng xã hội: Phân phối lợi ích kinh tế - xã hội từ du lịch một cách công bằng, rộng rãi cho mọi thành viên cộng đồng xứng đáng được hưởng. Ngăn chặn mọi tệ nạn xã hội, đối xử thiết công bằng, đặc biệt đối với trẻ em, phụ nữ, người yếu thế và dân tộc thiểu số. Cấm sử dụng lao động trẻ em, bảo đảm đối xử công bằng trong tuyển dụng.
Đáp ứng sự thỏa mãn của du khách: Cung cấp dịch vụ an toàn, chất lượng, đáp ứng tối đa nhu cầu và kỳ vọng của khách du lịch.
Nâng cao vai trò cộng đồng trong quản lý du lịch: Khuyến khích cộng đồng địa phương tham gia xây dựng kế hoạch, ra quyết định quản lý và phát triển du lịch với sự tham vấn đầy đủ từ các bên liên quan.
An sinh xã hội: Duy trì và cải thiện chất lượng cuộc sống người dân, bảo đảm quyền tiếp cận tài nguyên, dịch vụ thiết yếu và hệ thống hỗ trợ xã hội. Tránh gây suy thoái môi trường, khai thác quá mức hoặc tác động tiêu cực đến cấu trúc xã hội.
Bảo tồn giá trị văn hóa: Tôn trọng, phát huy di sản văn hóa, truyền thống, bản sắc cộng đồng. Tuân thủ hướng dẫn khi tham quan các điểm văn hóa - lịch sử nhạy cảm. Không mua bán, trưng bày hiện vật lịch sử khi chưa được phép. Góp phần bảo tồn di tích, tài sản văn hóa - tinh thần, không cản trở quyền tiếp cận của người dân. Tôn trọng quyền sở hữu trí tuệ khi khai thác các yếu tố văn hóa, nghệ thuật, kiến trúc, ẩm thực địa phương trong kinh doanh du lịch.
Sử dụng hiệu quả các nguồn lực: Giảm thiểu mức sử dụng nguồn tài nguyên quý hiếm và không thể tái tạo được trong việc phát triển và triển khai các cơ sở, phương tiện và dịch vụ du lịch(3).
Các khía cạnh xã hội cốt lõi của phát triển du lịch bền vững
Phát triển du lịch bền vững là một khái niệm đa chiều, được cấu thành bởi ba trụ cột không thể tách rời: kinh tế, xã hội và môi trường. Nếu như trụ cột kinh tế tập trung vào hiệu quả và tăng trưởng, trụ cột môi trường chú trọng đến bảo tồn tài nguyên và hệ sinh thái, thì trụ cột xã hội hướng đến con người, cộng đồng với mục tiêu cao nhất là công bằng, tiến bộ và hạnh phúc. Luật Du lịch năm 2017 định nghĩa: “Phát triển du lịch bền vững là sự phát triển du lịch đáp ứng đồng thời các yêu cầu về kinh tế - xã hội và môi trường, bảo đảm hài hòa lợi ích của các chủ thể tham gia hoạt động du lịch, không làm tổn hại đến khả năng đáp ứng nhu cầu về du lịch trong tương lai”(4).
Từ phương diện xã hội, phát triển du lịch bền vững bao hàm nội dung cốt lõi sau:
Một là, bảo đảm sinh kế bền vững, tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho cộng đồng địa phương. Đây là mục tiêu hàng đầu và là thước đo quan trọng nhất của tính bền vững xã hội. Phát triển du lịch phải tạo ra cơ hội việc làm trực tiếp và gián tiếp, ưu tiên lao động tại chỗ, giúp người dân đa dạng hóa nguồn thu nhập, cải thiện đời sống vật chất và tinh thần. Lợi ích kinh tế từ du lịch phải được phân phối một cách công bằng, lan tỏa đến mọi thành phần trong cộng đồng, góp phần thực hiện hiệu quả chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói, giảm nghèo, đặc biệt ở các vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số.
Hai là, bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa địa phương. Du lịch là cầu nối văn hóa, song cũng tiềm ẩn nguy cơ làm mai một, sai lệch, thậm chí là “thương mại hóa” các giá trị văn hóa truyền thống. Phát triển du lịch bền vững về xã hội đòi hỏi phải tôn trọng, bảo vệ và phát huy bản sắc văn hóa độc đáo của các cộng đồng dân cư. Các di sản văn hóa vật thể và phi vật thể, các phong tục, tập quán, lễ hội,... phải được xem là tài sản quý giá, nguồn lực nội sinh để tạo ra các sản phẩm du lịch đặc sắc, chứ không phải là đối tượng để khai thác một cách tận thu.
Ba là, phát huy vai trò chủ thể của cộng đồng địa phương. Người dân địa phương là chủ thể tham gia tích cực, có trách nhiệm và được hưởng lợi một cách xứng đáng từ quá trình phát triển du lịch. Sự tham gia của cộng đồng được thể hiện từ khâu lập quy hoạch, xây dựng dự án, đến tổ chức hoạt động, giám sát và đánh giá. Việc trao quyền cho cộng đồng, lắng nghe tiếng nói của họ sẽ bảo đảm các quyết định phát triển du lịch phù hợp với nguyện vọng, năng lực và điều kiện thực tế của địa phương, từ đó tạo đồng thuận xã hội.
Bốn là, bảo đảm công bằng và an sinh xã hội. Phát triển du lịch phải góp phần củng cố cấu trúc xã hội lành mạnh, tăng cường sự gắn kết cộng đồng. Các vấn đề như thu hồi đất đai, tái định cư, tiếp cận tài nguyên... cần được giải quyết một cách thấu đáo, minh bạch, bảo đảm hài hòa lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư và người dân. Đồng thời, phải kiểm soát chặt chẽ, ngăn chặn các tệ nạn xã hội có thể nảy sinh cùng với sự phát triển của du lịch.
Năm là, nâng cao sự hài lòng của du khách và chất lượng trải nghiệm. Bền vững về xã hội cũng có nghĩa là tạo ra một môi trường du lịch an toàn, thân thiện, văn minh, mang lại trải nghiệm chân thực và ý nghĩa cho du khách. Sự hài lòng của du khách không chỉ đến từ chất lượng dịch vụ mà còn từ sự tương tác tích cực với cộng đồng địa phương, sự tôn trọng lẫn nhau giữa khách và chủ nhà, từ đó xây dựng hình ảnh đẹp về đất nước, con người Việt Nam.
Thực trạng phát triển du lịch bền vững ở Việt Nam
Trong những năm qua, phát triển du lịch ở Việt Nam đạt được nhiều kết quả tích cực, thể hiện rõ nét trên phương diện xã hội.
Thứ nhất, du lịch đã trở thành công cụ xóa đói, giảm nghèo và tạo sinh kế hiệu quả cho hàng triệu người dân. Theo thống kê, ngành du lịch đã tạo ra khoảng 2 triệu việc làm trực tiếp, hàng triệu việc làm gián tiếp. Ở nhiều tỉnh, thành phố, đặc biệt là các vùng nông thôn, miền núi, loại hình du lịch cộng đồng, du lịch nông nghiệp đã trở thành hướng đi mới, giúp người dân chuyển đổi cơ cấu kinh tế, tăng thu nhập. Nhiều hộ gia đình đã thoát nghèo và vươn lên làm giàu nhờ cung cấp dịch vụ homestay, hướng dẫn viên người địa phương, kinh doanh các sản phẩm thủ công mỹ nghệ, nông sản địa phương...
Thứ hai, góp phần quan trọng vào việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa. Nhận thức được sức hấp dẫn của văn hóa đối với du lịch, nhiều địa phương đã quan tâm đầu tư trùng tu, tôn tạo các di tích lịch sử - văn hóa, phục dựng các lễ hội truyền thống, bảo tồn các làng nghề thủ công. Các di sản thế giới được UNESCO công nhận, như Vịnh Hạ Long (tỉnh Quảng Ninh), quần thể danh thắng Tràng An (tỉnh Ninh Bình), cố đô Huế (thành phố Huế), phố cổ Hội An (thành phố Đà Nẵng)... không chỉ là điểm đến hấp dẫn mà còn trở thành niềm tự hào dân tộc, được bảo vệ tốt hơn nhờ nguồn thu từ du lịch. Du lịch cũng tạo ra “sức sống mới” cho các giá trị văn hóa phi vật thể, như nhã nhạc cung đình Huế, không gian văn hóa cồng chiêng Tây Nguyên, dân ca Quan họ Bắc Ninh...
Thứ ba, vai trò và sự tham gia của cộng đồng địa phương ngày càng được coi trọng. Nhiều mô hình du lịch dựa vào cộng đồng đã được xây dựng thành công, trong đó người dân trực tiếp tham gia quản lý, vận hành và chia sẻ lợi ích. Các chính sách hỗ trợ của Nhà nước về vốn, đào tạo kỹ năng, quảng bá sản phẩm đã giúp nâng cao năng lực cho cộng đồng. Người dân được thể hiện quyền và nghĩa vụ, trách nhiệm trong quá trình xây dựng các quy hoạch, dự án phát triển du lịch tại địa phương.
Thứ tư, nhận thức của xã hội về phát triển du lịch bền vững được nâng lên. Các cấp ủy, chính quyền, doanh nghiệp và người dân đã nhận thức rõ hơn về tầm quan trọng của việc phát triển du lịch một cách có trách nhiệm, hài hòa giữa lợi ích kinh tế trước mắt và sự phát triển bền vững lâu dài. Các hoạt động tuyên truyền, giáo dục về du lịch xanh, du lịch có trách nhiệm, các bộ quy tắc ứng xử trong du lịch được triển khai rộng rãi, góp phần xây dựng môi trường du lịch văn minh, thân thiện.
Bên cạnh những kết quả đạt được, phát triển du lịch bền vững về phương diện xã hội ở nước ta vẫn còn nhiều khó khăn và thách thức:
Một là, phân phối lợi ích chưa công bằng. Lợi ích kinh tế chủ yếu tập trung vào doanh nghiệp lớn và nhà đầu tư bên ngoài, trong khi cộng đồng địa phương chỉ hưởng phần nhỏ qua việc làm thuê hoặc bán dịch vụ phụ trợ. Tình trạng “được mùa, rớt giá” và hạn chế về kỹ năng quản lý, kết nối thị trường, gia tăng khoảng cách giàu - nghèo tại các điểm du lịch.
Hai là, thương mại hóa các sản phẩm văn hóa. Áp lực phục vụ du khách dẫn đến một số giá trị văn hóa bị biến đổi, sân khấu hóa, mất đi tính nguyên bản. Một số lễ hội bị khai thác quá mức cho mục đích kinh doanh; sản phẩm thủ công mỹ nghệ sản xuất hàng loạt, ảnh hưởng đến sức hấp dẫn của điểm đến và niềm tự hào cộng đồng.
Ba là, xung đột lợi ích giữa du lịch và các ngành kinh tế. Việc thu hồi đất cho dự án du lịch ở một số nơi chưa minh bạch, gây khiếu kiện, mất ổn định xã hội. Sự cạnh tranh không lành mạnh giữa các hộ dân, giữa doanh nghiệp và cộng đồng vẫn tồn tại.
Bốn là, vấn đề xã hội và tệ nạn. Tình trạng “chặt chém”, lừa đảo, chèo kéo khách tuy giảm nhưng chưa chấm dứt, ảnh hưởng đến hình ảnh du lịch Việt Nam. Gia tăng dân số cơ học tại các điểm du lịch gây áp lực hạ tầng giao thông, y tế, môi trường. Mặt khác, phát triển du lịch nhanh, thiếu kiểm soát cũng làm gia tăng các loại tệ nạn xã hội, như mại dâm, cờ bạc, ma túy...
Năm là, năng lực cộng đồng và nhân lực hạn chế. Khả năng tham gia của cộng đồng trong chuỗi giá trị du lịch còn yếu, thiếu kiến thức thị trường, kỹ năng quản trị, ngoại ngữ. Nguồn nhân lực du lịch, đặc biệt tại chỗ, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển chuyên nghiệp và hội nhập quốc tế.
Nhiệm vụ, giải pháp tăng cường du lịch bền vững về xã hội trong giai đoạn mới
Để phát triển du lịch bền vững về phương diện xã hội đi vào chiều sâu và thực chất, cần tập trung thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp sau:
Một là, tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp ủy đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với phát triển du lịch bền vững. Cần tiếp tục quán triệt sâu sắc các quan điểm, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về phát triển du lịch. Các cấp ủy, chính quyền địa phương phải coi phát triển du lịch bền vững là nhiệm vụ chính trị quan trọng, đưa vào chương trình hành động, kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội với các mục tiêu, chỉ tiêu cụ thể về xã hội. Rà soát, bổ sung và hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật, đặc biệt là các chính sách liên quan đến đất đai, đầu tư, an sinh xã hội trong lĩnh vực du lịch, bảo đảm tính đồng bộ, khả thi và phù hợp với thực tiễn. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thực hiện quy hoạch và các dự án đầu tư du lịch, xử lý nghiêm các hành vi vi phạm.
Hai là, hoàn thiện cơ chế, chính sách để bảo đảm phân phối hài hòa lợi ích và phát huy thực chất vai trò chủ thể của cộng đồng địa phương. Cần xây dựng các cơ chế cụ thể để cộng đồng được tham gia một cách thực chất vào quá trình ra quyết định liên quan đến phát triển du lịch trên địa bàn. Quy định rõ tỷ lệ người dân phải được lấy ý kiến về quy hoạch, dự án. Xây dựng các mô hình chia sẻ lợi ích công bằng, minh bạch giữa Nhà nước, doanh nghiệp và người dân, như cơ chế cổ phần hóa tài nguyên cộng đồng, quỹ phát triển cộng đồng trích từ nguồn thu du lịch. Nhà nước cần có chính sách hỗ trợ cụ thể (tín dụng ưu đãi, đào tạo nghề, chuyển giao công nghệ, xúc tiến thương mại) để nâng cao năng lực và tạo điều kiện cho người dân địa phương khởi nghiệp, kinh doanh du lịch, trở thành những người chủ thực sự trên quê hương mình.
Ba là, gắn kết chặt chẽ phát triển du lịch với bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa dân tộc. Cần có quy hoạch tổng thể, khoa học về bảo tồn và khai thác các giá trị văn hóa phục vụ du lịch. Đầu tư có trọng tâm, trọng điểm cho công tác nghiên cứu, kiểm kê, số hóa di sản văn hóa. Khuyến khích sự tham gia của các nghệ nhân, các nhà nghiên cứu văn hóa và chính cộng đồng trong việc xây dựng các sản phẩm du lịch văn hóa có chiều sâu, độc đáo, tránh sự sao chép, đơn điệu. Đẩy mạnh công tác giáo dục, nâng cao ý thức, lòng tự hào và trách nhiệm của cả cộng đồng và du khách trong việc bảo vệ di sản.
Bốn là, chú trọng phát triển nguồn nhân lực du lịch, đặc biệt là nguồn nhân lực tại chỗ. Đổi mới chương trình, nội dung, phương pháp đào tạo nhân lực du lịch theo hướng chuẩn hóa, hiện đại, gắn với nhu cầu thực tế của thị trường. Đa dạng hóa các hình thức đào tạo, từ chính quy đến các lớp tập huấn ngắn hạn, đào tạo tại chỗ cho cộng đồng. Chú trọng đào tạo các kỹ năng mềm, ngoại ngữ, kiến thức văn hóa, ý thức bảo vệ môi trường và kỹ năng kinh doanh cho người lao động. Có chính sách thu hút, đãi ngộ để giữ chân nhân lực chất lượng cao làm việc trong ngành du lịch.
Năm là, tăng cường công tác quản lý xã hội, bảo đảm an ninh, an toàn và xây dựng môi trường du lịch văn minh, thân thiện. Các địa phương cần chủ động xây dựng và triển khai các kế hoạch bảo đảm an ninh trật tự, an toàn cho du khách. Kiên quyết đấu tranh, xử lý dứt điểm các hiện tượng tiêu cực, các loại tội phạm và tệ nạn xã hội tại các khu, điểm du lịch. Đẩy mạnh công tác quản lý và bảo vệ môi trường, xử lý rác thải, nước thải. Phát động sâu rộng các phong trào xây dựng nếp sống văn minh, ứng xử văn hóa trong cộng đồng dân cư và các doanh nghiệp du lịch. Tăng cường công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến các quy tắc ứng xử cho du khách.
Sáu là, đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ và chuyển đổi số trong phát triển du lịch bền vững. Ứng dụng công nghệ thông tin trong việc quản lý điểm đến, quảng bá du lịch, kết nối cung - cầu, cung cấp các trải nghiệm thông minh cho du khách. Xây dựng hệ thống cơ sở dữ liệu quốc gia về du lịch, trong đó có các chỉ số đo lường, giám sát mức độ phát triển bền vững về xã hội (tỷ lệ việc làm tại chỗ, mức độ hài lòng của cộng đồng, chỉ số bảo tồn văn hóa...).
Phát triển du lịch bền vững về phương diện xã hội là yêu cầu tất yếu để ngành du lịch Việt Nam phát triển đúng hướng, hiệu quả và lâu dài, hiện thực hóa mục tiêu trở thành ngành kinh tế mũi nhọn của đất nước. Đây là một quá trình đòi hỏi sự vào cuộc quyết liệt, đồng bộ của cả hệ thống chính trị, sự chung tay, góp sức của doanh nghiệp và toàn thể nhân dân. Bằng việc đặt con người vào vị trí trung tâm, bảo đảm hài hòa lợi ích, tôn vinh các giá trị văn hóa và xây dựng một xã hội lành mạnh, chúng ta không chỉ tạo ra những sản phẩm du lịch hấp dẫn, khác biệt mà còn góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng đất nước Việt Nam phồn vinh, hạnh phúc, vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”./.
---------------------------------------
(1) Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XIII, Nxb. Chính trị quốc gia Sự thật, Hà Nội, 2021, t. I, tr. 39
(2) Xem: Quyết định số 147/QĐ-TTg, ngày 22-1-2020, của Thủ tướng Chính phủ, về phê duyệt chiến lược phát triển du lịch đến năm 2030
(3) Mai Anh Vũ: Mục tiêu cơ bản và các nguyên tắc phát triển bền vững trong du lịch, Trang thông tin Cục Du lịch quốc gia Việt Nam, ngày 31-3-2020, https://vietnamtourism.gov.vn/post/31856
(4) Luật Du lịch, số 09/2017/QH14, ngày 19-6-2017
Chuyển đổi số và những vấn đề đặt ra trong quản lý xã hội vùng đồng bằng sông Cửu Long  (31/05/2025)
Ninh Bình bảo đảm sinh kế cho người dân trong vùng di sản Tràng An  (12/12/2024)
Tỉnh Ninh Bình chủ động tham gia cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư  (10/12/2024)
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Kinh nghiệm thực hiện mô hình “bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, tổ dân phố” ở Trung Quốc - Vận dụng cho thực tiễn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
- Phát triển văn hóa gắn với phát triển kinh tế và phát triển xã hội: Quá trình tất yếu, hướng đích của hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
- Phụ nữ Việt Nam trong nền kinh tế số
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm