TCCSĐT - Hệ thống giám sát ngân hàng quốc tế đã thất bại trong nỗ lực ngăn chặn một cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu. Hành động để phục hồi các nền kinh tế và không để lặp lại một cuộc khủng hoảng tài chính tồi tệ khác không chỉ là việc của mỗi quốc gia, mà cả thế giới phải chung tay, góp sức... Nhằm cung cấp thêm một cách nhìn nhận, phân tích, chúng tôi xin giới thiệu để bạn đọc tham khảo bài viết của Patrick Butler - Giám đốc McKinsey London - Financial Services Practice – McKinsey.

Hội nghị thượng đỉnh G-20 tại Luân Đôn họp vào đầu tháng 4 năm 2009 định hướng đổi mới hệ thống các quy định giám sát hoạt động tài chính toàn cầu nhằm ngăn chặn nguy cơ tái phát khủng hoảng trong tương lai. Đông đảo các chuyên gia tài chính và các nhà hoạch định chính sách đang nỗ lực để cụ thể hóa một thiết chế tài chính toàn cầu mới với ràng buộc không làm phát sinh thêm những khoản chi khổng lồ hay khởi động những quá trình có thể dẫn đến những kết cục không thể lường trước.

Trên thực tế, tuy có những khác biệt quan trọng trong từng thời điểm, nhưng nguyên nhân cuộc khủng hoảng vừa qua lặp lại những gì từng diễn ra trong quá khứ, đó là: các ngân hàng không có đủ nguồn vốn cần thiết nhưng lại cho vay quá nhiều, quá dễ dàng cung cấp các khoản tài chính lớn, đã “biến mất” ngay khi những mối quan ngại về chất lượng tài sản tăng lên ngày một thường xuyên... Vấn đề của ngày hôm nay bắt nguồn từ chính thị trường được coi là an toàn nhất, phức tạp nhất và có tính lan tỏa toàn cầu rộng lớn nhất, thông qua các loại chứng khoán và phái sinh tài chính – vốn được coi là những sản phẩm giúp tăng tính ổn định cho hệ thống tài chính.

Việc tìm kiếm các giải pháp xây dựng nền móng cho thiết chế tài chính toàn cầu mới trên nền tảng cấu trúc hiện tại chính là cơ hội định hình lại hệ thống quy định quản trị và giám sát tài chính toàn cầu một cách căn bản. Điều này, trước tiên đòi hỏi những đánh giá khách quan về nguyên nhân thất bại của hệ thống hiện tại. Những vấn đề thách thức nhất mà hệ thống quy định mới phải giải quyết gồm: mức độ bảo hộ hợp lý với các tổ chức tài chính, quy định dành cho các tổ chức tài chính phi ngân hàng (ví dụ như các quỹ phòng hộ), và xác định yêu cầu về lượng vốn cần thiết. Những thay đổi táo bạo là điều cần thiết nhưng phải dựa trên những cơ sở khoa học.

Xử lý vấn đề “quá lớn để đổ vỡ”

Sự sụp đổ của một ngân hàng lớn tạo ra rủi ro với các định chế tài chính, toàn bộ hệ thống ngân hàng, và rộng hơn là cả nền kinh tế. Vì lẽ đó, nỗ lực bảo vệ của các chính phủ không chỉ dành cho những người gửi tiền tại ngân hàng, mà còn cả chủ nợ và cổ đông ngân hàng. Các ngân hàng được “hưởng” sự can thiệp của chính phủ thường được nhìn nhận là có quy mô “quá lớn để đổ vỡ” (too big to fail – TBTF).
 
Hành động bảo vệ của chính phủ có thể giải quyết được vấn đề trước mắt, nhưng lại làm gia tăng rủi ro hệ thống trong dài hạn bởi các nhà đầu tư vào ngân hàng giờ đây có ít lý do hơn để theo dõi chặt chẽ hiệu quả hoạt động của các ngân hàng được xếp vào nhóm TBTF. Và ngay chính đội ngũ các nhà điều hành những tập đoàn tài chính TBTF cũng có động lực lớn hơn trong các canh bạc tín dụng. Các chính phủ cố gắng giảm bớt hiệu ứng “lạm dụng” này bằng việc cố tình tạo sự mơ hồ về ngân hàng nào sẽ trở thành đối tượng được “giải cứu” và các điều kiện sẽ đặt ra. Tuy vậy, các kế hoạch can thiệp được triển khai trong gần 2 năm qua, trên thực tế, chỉ khẳng định một niềm tin vững chắc rằng, các định chế tài chính (dù là ngân hàng hay phi ngân hàng) cũng sẽ không bao giờ phá sản theo cách giống với các tổ chức phi tài chính.

Hầu hết các đề xuất xử lý vấn đề TBTF được đưa ra trong thời gian qua đều yêu cầu quản lý và giám sát chặt chẽ các định chế tài chính phức hợp có quy mô lớn. Những biện pháp được ưu tiên áp dụng sẽ là hạn chế các tổ chức tài chính đạt tới quy mô quá lớn, kể cả phải tạo ra áp lực thu nhỏ hay buộc chia tách. Quy chế chống độc quyền cũng có thể được áp dụng để phòng ngừa tình trạng tập trung nguồn lực vào một nhóm nhỏ trên thị trường tài chính. Thị trường sẽ định ra mức giá cao hơn cho danh hiệu TBTF bằng việc tăng phí bảo hiểm theo mức độ rủi ro hệ thống có thể tạo ra hay tăng chi phí huy động vốn bổ sung. Luật pháp của các quốc gia cũng cần giám sát chặt chẽ các chi nhánh và đơn vị trực thuộc của những ngân hàng quốc tế. Và cuối cùng, các hoạt động ngân hàng đầu tư và ngân hàng thương mại phải đạt tới mức độ tách biệt lớn hơn so với hiện tại.

Bên cạnh phòng ngừa, cũng cần hình thành một hệ thống bảo đảm tính thanh khoản cho các ngân hàng lớn theo cách kiểm soát rủi ro hệ thống nhưng vẫn bảo đảm các nhà đầu tư và lãnh đạo quản trị ngân hàng phải trả “đúng giá” cho các hành vi lạm dụng nỗ lực bảo hộ của chính phủ - một mối nguy về đạo đức (moral hazard) trong kinh doanh ngân hàng. Hoa Kỳ đã đưa ra một quy trình kiểm tra và đánh giá năng lực dành cho các ngân hàng thương mại nội địa. Quy trình này cần được điều chỉnh tương thích cho các định chế tài chính phức hợp toàn cầu. Bài học từ AIG và Lehman Brothers rất hữu ích trong việc thiết kế những thủ tục kiểm tra và đánh giá. Một vài ý tưởng sáng tạo được đề xuất để xử lý các sự cố ngân hàng như, nhanh chóng thành lập một “ngân hàng trung gian” có quy mô nhỏ hơn nhưng sáng giá để đón nhận các tài sản tốt từ ngân hàng “có vấn đề” chuyển sang.

Không có kết luận đúng hay sai với các nỗ lực giải cứu và tiếp tục hỗ trợ các TBTF của chính phủ các quốc gia. Nhưng có một vấn đề mới: không cần biết các ngân hàng lớn sẽ được quản lý và giám sát ra sao, chừng nào họ vẫn tiếp tục trông mong vào bàn tay của chính phủ thì sẽ còn có thêm nhiều ngân hàng phá sản nữa!...

Giảm thiểu rủi ro hoạt động ngân hàng đa năng

Đồng thời với việc xử lý các TBTF, phải triển khai các hoạt động ngân hàng thương mại và ngân hàng đầu tư trong một định chế tài chính là biến thể khác của vấn đề TBTF. Từng hình thức hoạt động ngân hàng này có rủi ro đặc trưng riêng và bởi vậy cần những liệu pháp đặc thù.

Ngân hàng thương mại tạo ra sức sống tín dụng cho nền kinh tế thực và có đặc tính mỏng manh cố hữu: ngân hàng nào cũng sẽ tuyên bố phá sản khi những người gửi tiền rút tiền đồng loạt. Bởi vậy, chính phủ ban hành chính sách bảo hiểm tiền gửi, ngân hàng trung ương giữ vai trò “người cho vay cuối cùng”, và các ngân hàng phải tuân thủ chặt chẽ quy tắc quản trị, giám sát và duy trì dự trữ bắt buộc là một tất yếu khách quan.

Ngân hàng đầu tư cũng hỗ trợ nền kinh tế bằng cách giúp các công ty huy động vốn và bảo đảm tính thanh khoản. Nhưng để hoàn thành nhiệm vụ, các tổ chức này tiến hành vô số giao dịch trên thị trường vốn – nơi “bong bóng” và “đỗ vỡ” luôn rình rập. Kết quả là cả lợi nhuận và rủi ro trong mảng hoạt động này đều cao hơn hẳn so với ngân hàng thương mại.

Chưa có những bằng chứng rõ ràng về mức độ rủi ro lớn hơn đến từ việc kết hợp hoạt động thương mại và đầu tư trong một ngân hàng trong quãng thời gian khủng hoảng vừa qua. Tuy vậy, ưu thế lớn nhất của việc kết hợp hai hoạt động này trong cùng một định chế tài chính là giảm chi phí vốn. Và đây chính là động lực khuyến khích hình thành TBTF để chuyển gánh nặng chi phí và rủi ro sang những công dân đóng thuế một khi “có chuyện”.

Sẽ là một sai lầm nếu xem nhẹ những quy định yêu cầu phân tách hoạt động ngân hàng đầu tư và ngân hàng thương mại. Một thiết chế tài chính toàn cầu mới rất cần có đánh giá cân bằng và khách quan về ưu, nhược điểm của mô hình ngân hàng đa năng. Ngay cả khi không thể đi đến những phán quyết phân định rạch ròi hai mảng thương mại và đầu tư trong ngân hàng thì chí ít cũng phải dựng “tường lửa” đối với các khoản bảo đảm của chính phủ và bảo hiểm tiền gửi.

Quản lý các tổ chức phi ngân hàng

Chương trình nghị sự của G-20 cũng dành phần quan tâm rất lớn đối với việc quản lý sự vận động tích cực của các tổ chức đang hình thành “hệ thống ngân hàng ngầm”. Đó chính là các quỹ phòng hộ (hedge fund), các quỹ đầu tư vốn cổ phần cá nhân (private-equity fund), công ty bảo hiểm và các phương tiện đầu tư ngoại bảng khác. Giám sát chặt chẽ hơn, hẳn nhiên là cần thiết, nhưng cũng cần hết sức cẩn trọng khi thực hiện sự giám sát đó, bới:

Thứ nhất, các quy định khắt khe sẽ làm tăng chi phí các giao dịch kinh tế của xã hội. Các quy định quá cứng nhắc sẽ hạn chế tính cạnh tranh, làm suy yếu năng lực sáng tạo, đội thêm chi phí, duy trì các mô hình kinh doanh và quản trị hiệu suất thấp, và chuyển thiệt hại sang người đóng thuế mỗi khi các tổ chức này gặp sự cố.

Thứ hai, rất hiếm khi quỹ phòng hộ hay đầu tư vốn cổ phần cá nhân tạo được các rủi ro hệ thống. Các ngân hàng và phương tiện đầu tư ngoại bảng có rất nhiều khoản nợ tới hạn và khi các nghĩa vụ này không được thực hiện đầy đủ, ngay lập tức một hiệu ứng đô-mi-nô xuất hiện. Ngược lại, các tổ chức tài chính phi ngân hàng thường huy động vốn với các điều khoản cụ thể hoặc nhờ tài sản thế chấp. Do vậy, khi họ không thể thực hiện nghĩa vụ thanh toán nợ, nhà đầu tư mất tiền nhưng không tạo nên sự sụp đổ tức thì của thị trường. Vì thế, sẽ không hợp lý nếu áp dụng cùng một mức độ giám sát chung cho cả tổ chức tài chính phi ngân hàng và các ngân hàng.

Còn một câu hỏi nữa được đặt ra: nhiều quy định hơn có thực sự giúp các tổ chức tài chính vận hành an toàn hơn và lành mạnh hơn? Thị trường, chứ không phải các nhà hoạch định chính sách, sẽ nhận diện và phản ứng trước tiên với các vấn đề của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu 2007-2009. Và tỷ lệ đổ vỡ của các tổ chức được kiểm soát chặt chẽ cũng không hề thấp hơn so với những định chế được thả lỏng. Citigroup có lẽ là tổ chức tài chính được quản lý và giám sát nghiêm ngặt nhất hành tinh, nhưng hàng chục tỉ đô-la của Chính phủ Mỹ vẫn là chưa đủ để công chúng tin rằng ngân hàng này đã vượt qua giai đoạn khó khăn. Các quy chế quản lý lành mạnh và an toàn đối với ngân hàng thương mại đã thất bại. Các đề xuất về cơ chế và quy định giám sát với nhóm tổ chức tài chính khác nhau cần chú ý tới các đặc trưng rủi ro khác biệt của mỗi nhóm.

Cải thiện tính minh bạch của các sản phẩm tài chính

Cho đến giờ, các đề xuất về kiểm soát rủi ro hệ thống ngân hàng toàn cầu vẫn xem nặng việc giám sát cẩn trọng và thắt chặt kiểm soát hoạt động của các tổ chức tài chính. Còn một vấn đề khác cần được chú ý và hiểu sâu sắc: rủi ro hệ thống hình thành và lan tỏa thế nào. Các sản phẩm tài chính cũng tạo ra nguy cơ rủi ro không hề thua kém các tổ chức.

Nằm ở trung tâm của cuộc khủng hoảng là hàng loạt các sản phẩm được gọi tên bằng ba chữ viết tắt như ABS, CDO, CLO, SIV và CDS. Không ai trong số những người thiết kế và người mua các sản phẩm này hiểu đầy đủ về chúng. Những sản phẩm này “đầu độc” hệ thống tài chính, lặng lẽ lan tỏa khắp toàn cầu như một thứ virus đáng sợ, liên tục biến đổi trong quá trình di chuyển và đạt tới nguy cơ phá hủy cả hệ thống mà không hề phát đi tín hiệu cảnh báo nào. Các cơ chế quản lý và giám sát vẫn can thiệp rất rụt rè vào quá trình phát triển và lan tỏa những sản phẩm này do lo ngại tác động cản trở tính năng động của thị trường vốn. Những sản phẩm này được “sáng tạo” nhằm khai thác các kẽ hở và né tránh rào cản của quy định chứ không phải tìm cách thỏa mãn nhu cầu người tiêu dùng. Và đó là nguyên nhân trực tiếp của các bất ổn thường xuyên trên thị trường.

Kiểm soát chặt chẽ quy trình sáng tạo sản phẩm không hạn chế tiềm năng phát triển của ngành. Mỗi loại dược phẩm trước khi được đưa ra thị trường đều phải trải qua hàng loạt bước kiểm tra và dùng thử khắt khe. Có lẽ cách tốt nhất để kiểm soát rủi ro hệ thống với khu vực tài chính là hãm bớt hăng hái sáng tạo của các tổ chức và đặt ra yêu cầu giao dịch trên sàn với các sản phẩm có lượng giao dịch vượt quá một mức giới hạn định trước, hoặc hình thành một trung tâm thanh toán bù trừ bắt buộc với các sản phẩm này. Cách tiếp cận như vậy giúp các sản phẩm tài chính trở nên đơn giản, chuẩn mực và minh bạch hơn, giảm thiểu các rủi ro tiềm ẩn về tính thanh khoản – biểu hiện đầu tiên và trực tiếp nhất của các cuộc khủng hoảng tài chính

Xác định “quy mô vốn hợp lý”

Để tránh nguy cơ khủng hoảng trong tương lai, đồng thuận chung là ngân hàng cần giữ lại nhiều vốn hơn để bảo đảm năng lực thanh khoản. Nhưng câu hỏi bao nhiêu, dưới dạng nào vẫn chưa được trả lời. Hệ thống tài chính an toàn hơn khi các tổ chức tài chính cất trữ lượng vốn lớn hơn. Nhưng như vậy cũng có nghĩa, lợi nhuận của ngành tài chính sẽ giảm đi và nhiều khả năng chi phí vốn của khách hàng sẽ tăng lên. Cân bằng nhu cầu kiểm soát rủi ro và duy trì năng lực sinh lợi trên thị trường tài chính là điều cần thiết.

Nhiều đề xuất đổi mới hệ thống tài chính có cùng quan điểm cho rằng, quy mô vốn nên được xác định để hạn chế dần các tác động tiêu cực của chu kỳ kinh tế. Trong giai đoạn tăng trưởng, tổ chức tài chính tích lũy lượng vốn ở mức cao để xây dựng “vùng đệm” lớn hơn ở giai đoạn suy thoái. Một số ý tưởng khác thì đề xuất gắn việc xác định quy mô vốn với từng cấp độ rủi ro, với các giới hạn về đòn bẩy tài chính (tính theo tỷ lệ tài sản trên vốn chủ sở hữu). Nếu chỉ sử dụng một trong hai thước đo này, trong nỗ lực tối ưu theo một hướng duy nhất, các ngân hàng sẽ tạo ra những khoảng trống không được kiểm soát của đầu cơ rủi ro.

Những mô hình tính toán hiện đang được sử dụng dù rất phức tạp nhưng vẫn không thể xử lý xuể vô vàn rủi ro của hệ thống tài chính. Và các chuyên gia tư vấn, học giả, nhà kinh tế đang tiếp tục đề xuất các mô hình thậm chí còn phức tạp hơn. Mặc dù các nỗ lực quản trị rủi ro nội bộ sẽ hưởng lợi ít nhiều từ những ý tưởng này thì quan trọng hơn cả vẫn là xây dựng những mô hình cho phép đặt ra các quy định dễ hiểu, khách quan, và như John Maynard Keynes phát biểu, “đúng mơ hồ còn tốt hơn sai một cách chính xác”.

Vấn đề ngân hàng nên giữ vốn dưới dạng nào gây ra ít tranh cãi hơn. Khi một ngân hàng gặp cú sốc về nguồn vốn, sẽ rất khó giải quyết bằng cách nhanh chóng tăng vốn chủ sở hữu. Và lựa chọn thực tế duy nhất là bán tài sản. Hành động này, trong môi trường đầy lo âu của phương pháp hạch toán tài sản theo giá thị trường ngay lập tức làm suy yếu các chỉ số vốn hoặc giá trị tài sản thế chấp của các ngân hàng khác, và tạo ra hiệu ứng “bán tống bán tháo” các tài sản trên thị trường. Giải pháp tưởng chừng như hữu ích với một ngân hàng đã làm hại cả thị trường. Trong một cơ chế tài chính mới, các ngân hàng cần có khả năng tự bảo vệ bằng cách bảo đảm một lượng “vốn phát sinh theo thực tế”. Ngân hàng có thể sử dụng các loại chứng khoán “lai” để huy động vốn dưới hình thức nợ và được phép tự động chuyển đổi thành vốn cổ phần khi cần thiết.

Cân nhắc lại mô hình giám sát

Quản lý và giám sát hoạt động ngân hàng là công việc khó khăn. Những rủi ro hệ thống lớn nhất luôn xuất hiện vào thời điểm thị trường tài chính bùng nổ và có ủng hộ chính trị lớn nhất, các nỗ lực kiểm soát tình hình bị coi là không phải lúc. Lời giải chắc chắn không phải là bổ sung quỹ lương để tăng cường nhân viên hành chính theo dõi diễn biến thị trường, mà là một mô hình giám sát cần được tính toán thận trọng và đổi mới về căn bản.

Nhiều khả năng các nhà quản lý thị trường sẽ chuyển hướng tiếp cận. Thay cho các hướng dẫn nghiệp vụ sẽ là những quy tắc chặt chẽ buộc các ngân hàng phải chấp hành. Đặc biệt, khi nền kinh tế bước vào giai đoạn tăng trưởng nóng, mọi khuyến cáo thận trọng sẽ hầu như không được lắng nghe. Trong một hệ thống vận hành dựa trên các nguyên tắc, gánh nặng giám sát trên vai các nhà quản lý thị trường dễ dàng được trút bỏ. Nếu các ngân hàng vi phạm yêu cầu về vốn đã được thống nhất và ban hành từ trước, những phản ứng cương quyết và không thể thương lượng sẽ được cơ quan giám sát thực thi. Nỗ lực ngăn chặn được triển khai sớm hơn rất nhiều so với những gì người ta chứng kiến trong thời gian qua. Cơ quan giám sát có thể ban hành những điều kiện quản chế chặt chẽ, hạn chế các khoản chia cổ tức và tiền thưởng, hoặc yêu cầu cải thiện tỷ lệ nợ trên vốn cổ phần cho tới khi trạng thái an toàn được phục hồi.

Một thay đổi cần thiết khác của mô hình giám sát là “tính minh bạch triệt để” do Daniel Roth khởi xướng. Các tổ chức tài chính và công ty đại chúng vẫn đang hài lòng việc công bố thông tin cho nhà đầu tư trong các bản báo cáo tổng hợp dài dằng dặc, mà không ai có thể phân tích hay tìm kiếm được giá trị của các kết luận. Cách đây một thập kỷ, mỗi năm cơ sở dữ liệu các tài liệu công bố thông tin của Ủy ban chứng khoán Mỹ lại thăng thêm 35 gigabytes. Ngày hôm nay, dung lượng tăng lên mỗi năm là 200 gigabytes dữ liệu, tương đương khoảng 15 triệu trang văn bản. Đội ngũ giám sát có cơ hội tiếp cận thông tin lớn gấp nhiều lần những nhà đầu tư trên thị trường, nhưng điều đó chỉ khiến họ càng chìm sâu hơn trong biển dữ liệu. Cho dù thông tin có được nỗ lực công bố thế nào thì tính thanh khoản của thị trường vẫn “cạn kiệt” vào thời điểm cuối năm 2007 vẫn là điều cả thế giới đã chứng kiến.

Roth đề xuất cần tận dụng “sự khôn ngoan của đám đông” bằng cách bắt buộc các công ty phải cung cấp dữ liệu chi tiết, trực tuyến và liên tục cập nhật, thậm chí còn phải đồng nhất và định dạng sẵn sàng cho trích xuất số liệu vào các bảng tính để so sánh và phân tích. Các nhà đầu tư trên toàn thế giới, để thỏa mãn sự tò mò hay có động lực tự thân là bảo vệ lợi ích của mình sẽ hăng hái thực hiện các quá trình xử lý và khai thác số liệu trên quy mô lớn. Và như thế, một quá trình giám sát toàn diện đã được triển khai.

Những ý tưởng cụ thể trên có thể không hoàn toàn đúng, nhưng trong thời đại thông tin hiện nay, công tác giám sát một ngành công nghiệp toàn cầu hẳn nhiên không thể chỉ dựa vào các nỗ lực, cho dù rất phi thường nhưng đơn lẻ, của một vài cơ chế hành chính chuyên trách trong “trận chiến” với các “cá mập” ngân hàng. Sự an toàn của hệ thống tài chính toàn cầu cần một mô hình giám sát thông minh hơn thế rất nhiều lần.

Đạt tới sự hợp tác quốc tế

Các thị trường tài chính đã phát triển vượt ra ngoài lãnh thổ của các quốc gia và tầm kiểm soát của hệ thống quy tắc nội địa. Giá trị các nghĩa vụ quốc tế của hệ thống ngân hàng toàn cầu đã từ 6 nghìn tỉ USD năm 1990 lên tới 35 nghìn tỉ USD năm 2008.

Những dòng tiền khổng lồ không chỉ xuất hiện trên thị trường trái phiếu quốc tế quen thuộc, mà còn trên thị trường liên ngân hàng, chứng khoán hóa, sản phẩm phái sinh và các thị trường cho vay xuyên quốc gia. Rất nhiều hiệu ứng tích cực được tạo ra. Nhưng đồng hành với nó là nguy cơ rủi ro vô cùng lớn, có khả năng lan truyền nhanh chóng giữa các quốc gia. Một kết cục bất lợi chưa được tính tới trong chính sách điều hành và giám sát vận hành hệ thống tài chính của quốc gia sẽ sớm có tác động tới phần còn lại của thế giới.

Vì những lý do đó, các quy tắc và nỗ lực giám sát toàn cầu đã được duy trì trong nhiều năm. Trong nỗ lực tăng cường tính thể chế cho hệ thống quản lý tài chính toàn cầu, G-20 đề xuất thành lập các cơ quan giám sát tài chính quốc gia để xây dựng các quy tắc quản lý hệ thống tài chính quốc gia và hình thành một Ủy ban ổn định tài chính (thay thế cho Diễn đàn Ổn định Tài chính - Financial Stability Forum (FSF) làm nhiệm vụ theo dõi hệ thống tài chính toàn cầu để kịp thời đưa ra cảnh báo tới các nhà quản lý thị trường tài chính và chính phủ mỗi quốc gia. Các quốc gia cần mau chóng đạt được thỏa thuận có tính khả thi để cơ chế hợp tác trên có thể bắt đầu vận hành. Thỏa thuận này sẽ xác định phương thức để các cơ quan giám sát quốc gia có thể cùng nhau triển khai các giải pháp chung và áp dụng các điều chỉnh phù hợp trong hệ thống của mỗi quốc gia.

Bên cạnh đó, cần có những tranh luận trung thực và thẳng thắn về lý do thất bại trong nhiệm vụ giám sát rủi ro hệ thống tài chính toàn cầu của các tổ chức như IMF hay FSF. Có phải những tổ chức này đã không còn đủ năng lực phát hiện các rủi ro trước khi quá muộn hay hồi chuông cảnh báo được rung lên chưa đủ lớn để thức tỉnh thị trường lúc ấy đang say sưa với “tăng trưởng thần kỳ”? Dù có là nguyên nhân nào đi nữa thì việc đổi tên FSF và ủng hộ việc gióng lên các hồi chuông cảnh báo trong tương lai cũng vẫn còn quá ít. Điều thực sự cần thiết là mở rộng phạm vi giám sát với các nguy cơ khủng hoảng tiềm ẩn và hiệu lực mạnh mẽ của các quy tắc cẩn trọng trên thị trường tài chính toàn cầu.

Cuối cùng, cho dù có lo ngại với sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc trong kinh tế thì các chính phủ sở tại vẫn thực sự cần áp dụng các chính sách giám sát chặt chẽ hơn với các hoạt động của chi nhánh và thành viên tại các định chế tài chính toàn cầu, cho tới khi một hệ thống giám sát toàn cầu hoàn chỉnh xuất hiện. Nếu một quy định mới được đề xuất thực thi tại các nền kinh tế dẫn dắt toàn cầu, nhưng lại không được thực hành với phần còn lại của thế giới thì sẽ hình thành những cơ hội đầu cơ vô cùng tai hại. Thật may mắn, điều này rất khó xảy ra. Nhưng dù sao, cơ chế phối hợp và hợp tác vẫn cần phải được định rõ càng sớm càng tốt.

Cơ hội “trăm năm mới có một lần” để tái thiết hệ thống tài chính toàn cầu đang ở trong tay các nhà lập pháp. Định hướng cải tổ đã rõ nhưng các chi tiết thực thi có vị trí cực kỳ quan trọng. Phát hiện ra lỗi lầm lần này là sự chuẩn bị tốt nhất cho cuộc khủng hoảng tài chính tiếp theo. Thiết kế quá trình đổi mới cần hết sức cẩn trọng và được tính toán kỹ lưỡng, dựa trên các phân tích đầy đủ về các vấn đề cốt lõi. Nỗ lực đổi mới hệ thống tài chính toàn cầu phải có đủ sự sáng tạo cần thiết để đưa ra những giải pháp cho 20 năm tiếp theo, thay vì làm mới lại những cách tiếp cận đã không còn tác dụng từ 20 năm trước. Và những giải pháp thay đổi cũng cần xử lý tốt những khó khăn chính trị như vấn đề bảo hộ các định chế TBTF./.