Bước tiến mới trong thực hiện chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước
Những kết quả đạt được
1- Về cải cách thể chế
Cải cách thể chế được xác định là một trong những trọng tâm của cải cách hành chính nhà nước và đã đạt được kết quả tương đối thành công về xây dựng và điều chỉnh thể chế quản lý hành chính nhà nước trong điều kiện chuyển sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập kinh tế quốc tế. Trong 10 năm qua, chúng ta đã tập trung chỉ đạo xây dựng và hoàn thiện hệ thống thể chế, trọng tâm là thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và thể chế về tổ chức, hoạt động của hệ thống hành chính. Kết quả đã có nhiều luật, pháp lệnh được chuẩn bị và trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua, như Luật Đất đai, Luật Doanh nghiệp, Luật Xây dựng, Luật Phá sản, Luật Cạnh tranh... Chính quyền địa phương các cấp đã tăng cường thực hiện công tác cải cách thể chế, quan tâm tới thể chế trên các lĩnh vực, như thu hút đầu tư, xây dựng khu công nghiệp, giải phóng mặt bằng, hỗ trợ các thành phần kinh tế phát triển, phân cấp, ủy quyền cho các sở và cấp huyện trên nhiều lĩnh vực... thể chế hóa được các vấn đề thuộc chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, thể hiện được tư tưởng đổi mới, đáp ứng yêu cầu của công cuộc phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.
Thể chế của hệ thống hành chính tiếp tục được hoàn thiện, đổi mới, thể hiện trong các văn bản như Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân, Luật Thanh tra, Luật Cán bộ, công chức; các nghị định của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ; các văn bản về tổ chức và hoạt động của ủy ban nhân dân và các cơ quan chuyên môn của ủy ban nhân dân ở cấp tỉnh, huyện đã được ban hành theo hướng giảm tối đa sự chồng chéo chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan, phân biệt rõ hoạt động của cơ quan hành chính với doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp dịch vụ công; các quy định về phân cấp quản lý trong hệ thống cơ quan hành chính trên các lĩnh vực quản lý nhà nước ngày càng được đẩy mạnh.
Thể chế về mối quan hệ giữa Nhà nước với nhân dân tiếp tục được hoàn thiện theo hướng mở rộng dân chủ, trong đó chú trọng việc lấy ý kiến nhân dân trước khi quyết định các chủ trương, chính sách quan trọng, tăng cường cơ chế giám sát của người dân đối với hoạt động của cơ quan nhà nước, xử lý nghiêm các hành vi trái pháp luật của cơ quan và cán bộ, công chức trong thi hành công vụ, làm rõ thẩm quyền, trách nhiệm của cơ quan hành chính trong giải quyết khiếu nại của dân... Các văn bản về quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở, Luật Khiếu nại tố cáo, cơ chế “một cửa”, công khai ngân sách, tài chính, đấu thầu, thanh tra nhân dân... Việc triển khai thực hiện các thể chế này đã góp phần xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, tạo điều kiện để nhân dân tham gia hoạt động của chính quyền, giám sát hoạt động của chính quyền và đội ngũ cán bộ, công chức.
2 - Về cải cách thủ tục hành chính
Chính phủ đã có những chỉ đạo sâu sát, quyết liệt, cụ thể nhằm tạo sự chuyển biến thực sự trong cải cách thủ tục hành chính. Kết quả là thủ tục hành chính trên các lĩnh vực đã được rà soát, đơn giản hóa nhiều lần theo hướng tạo thuận lợi cho cá nhân, tổ chức khi đến cơ quan hành chính giải quyết các công việc. Đặc biệt, thủ tục hành chính trên những lĩnh vực bức xúc, liên quan trực tiếp tới người dân và doanh nghiệp, như đất đai, xây dựng, hộ tịch, hộ khẩu, đầu tư, đăng ký doanh nghiệp, hải quan, thuế, kho bạc, xuất nhập khẩu... đã được rà soát sửa đổi nhiều lần. Một loạt những thủ tục hành chính đã được đơn giản hóa và thuận lợi hơn, ví dụ như thủ tục hành chính về đăng ký kết hôn, khai sinh, xác nhận hộ nghèo, xác nhận thành phần dân tộc, cấp giấy chứng minh thư, cấp hộ chiếu phổ thông, chứng thực, đăng ký kinh doanh... Các thủ tục hành chính về thuế, hải quan, dự án đầu tư trong và ngoài nước đã có nhiều sửa đổi.
Thực hiện Đề án 30 giai đoạn I, trong cả nước đã thống kê được trên 5.700 thủ tục hành chính, trên 9.000 văn bản quy định và trên 100.000 biểu mẫu thống kê thủ tục hành chính. Giai đoạn II, các bộ, ngành, địa phương đã hoàn thành việc tự rà soát theo tiến độ và đạt chỉ tiêu đơn giản hóa tối thiểu 30% thủ tục hành chính. Đến nay, đã có trên 5.500 thủ tục hành chính được rà soát; trong đó, có 453 thủ tục hành chính được kiến nghị bãi bỏ, hủy bỏ, 3.749 thủ tục hành chính được kiến nghị sửa đổi, bổ sung theo hướng tạo thuận lợi hơn cho người dân và doanh nghiệp, 288 thủ tục hành chính được thay thế, đạt tỷ lệ đơn giản hóa 81%.
Thực hiện cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” tại cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, cho đến nay, đã có 96% cấp xã, 98% cấp huyện và 87% các sở, ban, ngành cấp tỉnh triển khai cơ chế này. Thực tế cho thấy, bên cạnh một số hạn chế cần tiếp tục đổi mới, nhìn chung những đổi mới, cải cách thực hiện theo cơ chế “một cửa”, “một cửa liên thông” đã được xã hội, người dân và doanh nghiệp đánh giá cao và mong muốn tiếp tục đẩy mạnh và thực hiện triệt để hơn.
3 - Về cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước
Kết quả rõ nét nhất về thực hiện cải cách tổ chức bộ máy hành chính nhà nước trong những năm qua là chức năng, nhiệm vụ của Chính phủ, các bộ và chính quyền địa phương được điều chỉnh cho phù hợp với yêu cầu trong giai đoạn mới. Việc điều chỉnh chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan hành chính đã chú trọng sự phù hợp với tình hình thực tế, bao quát hết các lĩnh vực cần quản lý nhà nước, khắc phục sự trùng dẫm, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ. Chức năng, nhiệm vụ của các cơ quan trong hệ thống hành chính nhà nước đã được điều chỉnh, làm rõ và phù hợp hơn với vai trò của Nhà nước trong cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhiều công việc trước đây thuộc thẩm quyền của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ nay đã được phân cấp mạnh cho các bộ, ngành và địa phương. Mặc dù còn có những hạn chế, nhưng nhìn chung qua tiến hành cải cách đã tách rõ chức năng, nhiệm vụ đơn vị hành chính với sự nghiệp, hành chính với doanh nghiệp. Chức năng quản lý nhà nước tập trung vào xây dựng, hoạch định thể chế, chính sách, quy hoạch, kế hoạch, hướng dẫn triển khai và kiểm tra việc thực hiện. Sự chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ giữa các cơ quan hành chính đã được khắc phục cơ bản. Sau 10 năm cải cách, số lượng các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ từ 48 đã giảm xuống còn 30, các cơ quan chuyên môn cấp tỉnh từ 19 - 27 xuống còn 17 - 20 và cơ quan chuyên môn cấp huyện từ 12 - 15 đầu mối xuống 12 - 13. Thực hiện phân cấp quản lý giữa trung ương - địa phương đã góp phần tạo ra những chuyển biến tích cực trong hoạt động của chính quyền địa phương cũng như của các bộ, ngành trung ương. Trong đó, các bộ, ngành tập trung vào khâu hoạch định thể chế, chính sách, quy hoạch, kế hoạch, hướng dẫn thực hiện và thanh tra, kiểm tra. Các địa phương được tăng thẩm quyền đã phát huy sức sáng tạo, tự chủ của chính quyền địa phương.
Để tiếp tục nâng cao hiệu lực, hiệu quả hoạt động của chính quyền địa phương các cấp, phân biệt rõ chính quyền đô thị với chính quyền nông thôn, Quốc hội đã ra Nghị quyết thí điểm không tổ chức hội đồng nhân dân huyện, quận, phường tại 10 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Qua thí điểm đã cho thấy những kết quả tích cực, bộ máy hành chính hoạt động hiệu quả, tổ chức gọn nhẹ. Đây là cơ sở để có những bước đi thích hợp về tổ chức chính quyền địa phương trong cả nước thời gian tới.
4 - Về xây dựng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
Chương trình tổng thể cải cách hành chính nhà nước đã xác định các biện pháp để xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức theo hướng chuyên nghiệp, có năng lực và trình độ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong giai đoạn mới. Đến nay đã xây dựng được tiêu chuẩn các chức danh công chức, từng bước tăng cường công tác quản lý cán bộ, công chức; công tác thi tuyển công chức, thi nâng ngạch, luân chuyển, chuyển đổi vị trí công tác được quan tâm, thực hiện có nền nếp và ngày càng phát huy hiệu quả tích cực, đã chú trọng đến xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức cấp cơ sở. Qua 10 năm triển khai, đến nay đã xác định rõ đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở; bao gồm cán bộ chuyên trách, bán chuyên trách và công chức cấp xã với các quy định về tiêu chuẩn chức danh, các chế độ và chính sách có liên quan nhằm khuyến khích, động viên, tạo sự an tâm để đội ngũ cán bộ, công chức cơ sở làm việc. Thực hiện chương trình cải cách, đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức đã có sự chuyển biến về thái độ, phong cách làm việc cũng như về trình độ, năng lực. Mặc dù còn có những hạn chế, nhưng đội ngũ cán bộ, công chức đã góp phần tích cực tạo ra những thành quả trong phát triển kinh tế - xã hội của đất nước thời gian qua.
Nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức đã bước đầu được đổi mới theo hướng phù hợp với các đối tượng đào tạo, bồi dưỡng. Trong đó, đã xây dựng và từng bước chuẩn hóa các chương trình đào tạo quản lý nhà nước theo từng loại đối tượng chuyên viên cao cấp, chuyên viên chính, chuyên viên, chương trình đào tạo tiền công vụ, chương trình bồi dưỡng chủ tịch ủy ban nhân dân cấp xã. Đồng thời, trong quá trình thực hiện đã có sự đổi mới về phương thức, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng. Việc nâng cao chất lượng đội ngũ giảng viên tham gia đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức đã được chú trọng thực hiện. Chính sách tiền lương, chế độ bảo hiểm xã hội đã có những cải cách từng bước theo kế hoạch, góp phần ổn định cuộc sống của cán bộ, công chức.
5 - Về cải cách tài chính công
Cơ chế, chính sách quản lý thu chi ngân sách và sử dụng tài sản nhà nước được đổi mới từng bước, hoàn thiện và ngày càng phù hợp hơn. Quốc hội quyết định ngân sách nhà nước và phân bổ ngân sách trung ương, hội đồng nhân dân các cấp quyết định ngân sách địa phương. Đã có bước tiến quan trọng trong chính sách tài chính đối với doanh nghiệp nhà nước, xóa bỏ tình trạng cấp phát ngân sách cho hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước, thực hiện chế độ tự chủ và tự chịu trách nhiệm về tài chính của các doanh nghiệp nhà nước theo pháp luật. Đồng thời đã phân biệt rõ hơn cơ chế tài chính cho các cơ quan hành chính và các đơn vị sự nghiệp, nâng cao tính chủ động sáng tạo và trách nhiệm trong hoạt động của các đơn vị sự nghiệp. Thực hiện Nghị định số 130/2005/NĐ-CP ngày 17-10-2005 của Chính phủ về chế độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm về sử dụng biên chế và kinh phí chi hành chính, Nghị định số 43/2006/NĐ-CP ngày 25-4-2006 về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm về thực hiện nhiệm vụ tổ chức bộ máy, biên chế và tài chính đối với các đơn vị sự nghiệp công lập, Nghị định số 115/2005/NĐ-CP ngày 05-9-2005 về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm đối với các tổ chức khoa học và công nghệ công lập đã góp phần thúc đẩy các cơ quan sắp xếp lại tổ chức bộ máy, tinh giản biên chế, nâng cao hiệu suất làm việc, hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ được giao, tiết kiệm kinh phí, tạo điều kiện tăng cường cơ sở vật chất, từng bước hiện đại hóa công nghệ quản lý, giúp các tổ chức khoa học và công nghệ nâng cao tính chủ động, sáng tạo trong việc thực hiện nhiệm vụ, tạo điều kiện gắn kết nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ với sản xuất, đã khẳng định tính đúng đắn và phù hợp với yêu cầu đổi mới cơ chế quản lý mới, tạo điều kiện cho đơn vị chủ động sử dụng nguồn lực tài chính, lao động, cơ sở vật chất để thực hiện nhiệm vụ được giao, chủ động phân bổ nguồn tài chính của đơn vị theo nhu cầu chi tiêu đối với từng lĩnh vực trên tinh thần tiết kiệm, thiết thực và hiệu quả.
6 - Về thực hiện hiện đại hóa hành chính
Thông qua hiện đại hóa hành chính, trụ sở và điều kiện làm việc của các cơ quan hành chính đã được cải thiện đáng kể. Việc triển khai Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2000 và Hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001:2008 từ ngày 25-11-2009 và đẩy mạnh ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước đã đem lại hiệu quả tích cực trong thời gian vừa qua. Cho đến nay, đã có 1.453 cơ quan hành chính ở Trung ương và địa phương triển khai, được cấp giấy chứng nhận ISO. Thông qua việc xây dựng, áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo ISO đã xây dựng được các quy trình giải quyết công việc một cách khoa học; từng bước cải tiến phương pháp làm việc, tạo điều kiện thuận lợi cho từng cán bộ, công chức, phòng, ban giải quyết công việc thông suốt, kịp thời, hiệu quả; đơn giản hóa quy trình và rút ngắn thời gian giải quyết công việc của doanh nghiệp, địa phương, cơ sở; giảm các tác động tiêu cực trong thực thi nhiệm vụ của cán bộ, công chức khi giải quyết các thủ tục hành chính. Việc ứng dụng công nghệ thông tin phục vụ người dân và doanh nghiệp đã phát huy hiệu quả, bước đầu tạo lòng tin, thói quen của nhân dân trong việc tiếp xúc với các dịch vụ của cơ quan nhà nước, đồng thời là cơ sở rút kinh nghiệm, mở rộng trong thời gian tới, nhất là ứng dụng công nghệ thông tin cung cấp dịch vụ công trực tuyến trên mạng in-tơ-nét, ứng dụng công nghệ thông tin tại bộ phận “một cửa”.
Cải cách hành chính còn chậm, chưa nhất quán, hiệu quả còn thấp so với mục tiêu đặt ra
Mặc dù đã có những kết quả tiến bộ đáng ghi nhận trong cải cách hành chính 10 năm qua, nhưng tốc độ cải cách hành chính còn chậm, chưa nhất quán, hiệu quả còn thấp so với mục tiêu đặt ra là “đến năm 2010 xây dựng được một nền hành chính dân chủ, trong sạch, vững mạnh, chuyên nghiệp, hiện đại”. Nhìn một cách tổng thể, những kết quả đạt được trong 10 năm qua còn hạn chế, chưa tương xứng với yêu cầu, quy mô đổi mới toàn diện theo tinh thần nghị quyết của Đảng và mục tiêu chung mà chương trình tổng thể đề ra; kết quả đạt được chưa bền vững.
Hệ thống thể chế thiếu đồng bộ, thống nhất, còn chồng chéo, bảo đảm về số lượng nhưng chất lượng còn hạn chế. Đầu mối trực thuộc Chính phủ có giảm nhưng bộ máy bên trong các bộ, ngành chưa giảm. Bộ máy chính quyền địa phương thiếu ổn định, thường xuyên thay đổi. Thiếu quy hoạch tổng thể đơn vị hành chính các cấp. Công tác kiểm tra sau phân cấp còn buông lỏng.
Chưa xây dựng cơ cấu cán bộ, công chức trong các cơ quan hành chính và thực hiện chưa tốt việc đào tạo trước khi bổ nhiệm; chưa có cơ chế quy định trách nhiệm của người đứng đầu và đánh giá được chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức sau đào tạo; công tác cải cách tiền lương còn chậm; cải cách tài chính công thực hiện mới chỉ là bước đầu, kết quả đạt được còn hạn chế. Các thể chế về cải cách tài chính công chưa được sửa đổi, bổ sung kịp thời cho phù hợp với thực tế.
Kết quả áp dụng hệ thống quản lý chất lượng theo tiêu chuẩn TCVN ISO 9001-2000 vào hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước theo Quyết định số 144/2006/QĐ-TTg ngày 20-6-2006 của Thủ tướng Chính phủ còn hạn chế. Việc hiện đại hóa công sở không đồng bộ, dẫn tới manh mún, phân tán. Kết quả đầu tư xây dựng trụ sở xã vẫn chưa thực hiện được như Chương trình tổng thể đề ra. ứng dụng công nghệ thông tin không đạt mục tiêu của Chương trình tổng thể.
Phương hướng cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020
Trên cơ sở kết quả đạt được trong công cuộc cải cách hành chính 10 năm qua và thực trạng nền hành chính của đất nước, Dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020 trình Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã nêu rõ 3 giải pháp đột phá nhằm đưa đất nước phát triển nhanh, bền vững, trong đó tiếp tục khẳng định: Hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, trọng tâm là tạo lập môi trường cạnh tranh bình đẳng và cải cách hành chính. Với nhận thức về tính cấp thiết đó, cải cách hành chính cần được chỉ đạo và điều hành sát sao và dứt điểm đúng với yêu cầu của một nhiệm vụ đột phá, theo đó, phương hướng cải cách hành chính nhà nước giai đoạn 2011 - 2020 gồm những nội dung cơ bản cần tiếp tục được triển khai, quán triệt thực hiện như sau:
Thứ nhất, cải cách hành chính phải được tiến hành đồng bộ trong tổng thể đổi mới hệ thống chính trị; đáp ứng yêu cầu hoàn thiện nhanh và đồng bộ thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; tiếp tục làm rõ và đúng chức năng, nhiệm vụ, trách nhiệm của từng cơ quan hành chính, thực hiện phân công, phân cấp rõ ràng và phù hợp; xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức chuyên nghiệp và hướng tới xây dựng một nền hành chính hiện đại. Đến năm 2020 xây dựng được một nền hành chính phục vụ trong sạch, minh bạch, vững mạnh, chuyên nghiệp và hiện đại hóa, hoạt động có hiệu lực, hiệu quả đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và phục vụ người dân, doanh nghiệp và xã hội.
Thứ hai, xây dựng và hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước, cụ thể về sửa đổi, bổ sung các văn bản luật quan trọng về tổ chức bộ máy, rà soát, ban hành các văn bản quy định chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền của các bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, cơ quan chuyên môn thuộc ủy ban nhân dân các cấp và ban hành các thể chế về công chức, công vụ, về tổ chức và hoạt động của các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công. Cải cách thủ tục hành chính, tiếp tục rà soát, đơn giản hóa các thủ tục hành chính trên các lĩnh vực; thực hiện các quy định về kiểm soát thủ tục hành chính; công khai hóa các thủ tục hành chính và nghiên cứu thực hiện thống nhất cách tính chi phí cá nhân, tổ chức phải bỏ ra khi giải quyết các thủ tục hành chính.
Thứ ba, cải cách tổ chức bộ máy hành chính, trong đó tập trung rà soát, quy định rõ chức năng, nhiệm vụ của cơ quan hành chính các cấp, chuyển giao mạnh những nội dung cơ quan hành chính nhà nước không nên làm hoặc làm không hiệu quả cho các tổ chức xã hội, tổ chức phi chính phủ đảm nhận; tiếp tục thực hiện mô hình bộ quản lý đa ngành, đa lĩnh vực; đẩy mạnh phân cấp; đổi mới cơ chế hoạt động của các cơ quan hành chính, các đơn vị sự nghiệp dịch vụ công.
Thứ tư, cải cách chế độ công vụ, công chức, tiếp tục hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn chức danh cán bộ, công chức; xây dựng cơ cấu công chức gắn với vị trí việc làm; hoàn thiện chế độ tuyển dụng, thi nâng ngạch, chế độ đánh giá cán bộ, công chức, chế độ đào tạo, bồi dưỡng và chế độ tiền lương đối với cán bộ công chức.
Thứ năm, ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động của cơ quan hành chính, đẩy nhanh quá trình ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động của cơ quan hành chính một cách hiệu quả, cung cấp các dịch vụ hành chính công trực tuyến để tạo thuận lợi cho tổ chức và cá nhân trong các giao dịch với cơ quan hành chính./.
Nâng tầm công tác quản lý nhà nước về du lịch tại Đồng Tháp  (18/05/2011)
Những vấn đề đặt ra trong phân cấp nhà nước về quản lý kinh tế - xã hội  (18/05/2011)
Công bố danh sách người ứng cử đại biểu Quốc hội khóa XIII  (17/05/2011)
Nâng cao chất lượng đại biểu Quốc hội khóa XIII  (17/05/2011)
- Hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của chính quyền đô thị, đáp ứng yêu cầu quản trị quốc gia hiện đại, hiệu quả ở Việt Nam
- Vai trò của các quốc gia tầm trung trong hệ thống quốc tế và gợi mở cho Việt Nam trong mục tiêu khẳng định vị thế quốc gia trong bối cảnh mới
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên