Đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết số 08/2004/NQ-CP ngày 30-6-2004 của Chính phủ về phân cấp quản lý nhà nước là cơ sở tham khảo để hoàn thiện Đề án phân công, phân cấp quản lý kinh tế - xã hội giữa Trung ương và địa phương gắn với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2011 - 2020 và kế hoạch 5 năm 2011- 2015.

1 - Đánh giá kết quả thực hiện

Ngay sau khi có Nghị quyết số 08/2004/NQ-CP, các bộ, ngành và địa phương đã tổ chức triển khai thực hiện nghiêm túc. Đó là khẩn trương chuẩn bị các đề án về phân công, phân cấp quản lý trong phạm vi ngành và các cấp chính quyền địa phương để trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt. Hầu hết các văn bản pháp luật trình Quốc hội và Chính phủ ban hành dưới các hình thức Luật, Pháp lệnh, Nghị định đều quán triệt tinh thần đổi mới nhằm phát huy sự chủ động sáng tạo của các cấp và cơ sở, với mục tiêu sử dụng có hiệu quả nhất các nguồn lực được phân cấp quản lý, trong đó có các nguồn lực cực kỳ quan trọng như: đất đai, tài nguyên, đầu tư phát triển, thu chi ngân sách nhà nước (NSNN)...

Quá trình đổi mới phân cấp quản lý kinh tế - xã hội cùng với việc thực hiện cải cách hành chính đã đem lại những kết quả thiết thực thúc đẩy sự phát triển kinh tế, nâng cao đời sống nhân dân, thể hiện qua một số lĩnh vực cụ thể như sau:

Một là, đất nước ta đã vượt qua khó khăn thách thức do tác động của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế, nhờ vậy đã ra khỏi nhóm các nước kém phát triển. Tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) bình quân 5 năm giai đoạn 2006 - 2010 ước đạt 6,9%. GDP theo giá thực tế tính theo đầu người năm 2010 dự kiến đạt khoảng 1.200 USD, vượt mục tiêu kế hoạch đề ra là từ 1.050 đến 1.100 USD. Hầu hết các ngành, lĩnh vực của nền kinh tế đều có bước phát triển khá.

Hai là, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa tiếp tục được xây dựng và ngày càng hoàn thiện. Nền kinh tế nhiều thành phần phát triển mạnh. Môi trường đầu tư, kinh doanh liên tục được đổi mới theo hướng hội nhập, bình đẳng. Các loại thị trường cơ bản đã được hình thành, từng bước phát triển thống nhất trên cả nước và gắn kết với thị trường thế giới.

Ba là, kinh tế vĩ mô cơ bản giữ được ổn định, lạm phát được kiềm chế. Thu NSNN vượt kế hoạch, bảo đảm được các nhu cầu chi đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, quốc phòng an ninh và an sinh xã hội. Cân đối ngoại tệ và cán cân thanh toán quốc tế liên tục thặng dư trong ba năm 2006 - 2008, từ năm 2009, tuy có bị biến động, nhưng đến nay đang đi dần vào thế ổn định. Các chỉ số về nợ của Chính phủ, nợ nước ngoài của quốc gia nằm trong giới hạn an toàn cho phép.

Bốn là, huy động được nhiều nguồn vốn đầu tư phát triển thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Bình quân 5 năm huy động vốn đầu tư toàn xã hội tăng 18,6%/năm, bằng 42,9% GDP, vượt kế hoạch đề ra. Nguồn vốn ODA cam kết năm sau cao hơn năm trước, năm 2010 đạt mức cao nhất từ trước đến nay. Vốn ODA giải ngân vượt tiến độ 1 năm so với kế hoạch.

Năm là, các lĩnh vực giáo dục đào tạo, khoa học công nghệ và công tác an sinh xã hội có tiến bộ trên một số mặt, bảo vệ tài nguyên môi trường được chú trọng hơn, đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện. Cụ thể, tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2010 đạt 40%. Công tác an sinh xã hội được đặc biệt coi trọng, đã thực hiện nhiều chính sách hỗ trợ người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, các vùng miền núi, vùng sâu, vùng xa, và những đối tượng chính sách khác. Trong 5 năm qua đã giải quyết việc làm cho khoảng 8,1 triệu lao động. Nhờ đó tình hình xã hội, đời sống của người dân được ổn định, tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn năm 2006) dự kiến năm 2010 giảm xuống dưới 10%, vượt kế hoạch đề ra. Chỉ số phát triển con người tiếp tục tăng ở cả 3 yếu tố (thu nhập bình quân đầu người, tuổi thọ trung bình và chỉ số giáo dục). Đến nay các mục tiêu thiên niên kỷ đề ra đều đạt và vượt các cam kết với cộng đồng quốc tế.

Sáu là, cải cách hành chính và công tác phòng chống tham nhũng có chuyển biến tích cực, an ninh quốc phòng được giữ vững, công tác đối ngoại, hợp tác kinh tế quốc tế ngày càng mở rộng. Vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được nâng cao, đóng góp tích cực vào giải quyết các vấn đề quốc tế và khu vực...

Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện phân cấp, ở một số ngành, lĩnh vực và một số địa phương còn một số mặt tồn tại, hạn chế như: tuy phân cấp nhưng thiếu các biện pháp giám sát, kiểm tra nên làm giảm hiệu quả, không bảo đảm được sự thống nhất về chính sách và cơ chế quản lý, hạn chế phân cấp cho cấp dưới với nhiều lý do khác nhau để giữ lại quyền lực cho cấp mình. Ở một số nơi chưa quan tâm đầy đủ đến tăng cường tổ chức bộ máy và đội ngũ cán bộ nên việc thực hiện các chủ trương phân cấp diễn ra không đồng bộ và triệt để theo yêu cầu đặt ra.

2 - Các đề xuất và kiến nghị

Quá trình thực hiện Nghị quyết 08 trong 6 năm qua còn gặp nhiều bất cập, vướng mắc, thậm chí thiếu những điều kiện, cơ chế đầy đủ để vận dụng triển khai hiệu quả. Qua tổng hợp, xin nêu một số vấn đề chủ yếu mà các bộ, ngành và địa phương kiến nghị, đề xuất cần được bổ sung, sửa đổi, hoàn thiện như sau:

A) Nhóm vấn đề do địa phương kiến nghị. Nhiều địa phương đề nghị, thời gian tới cần xây dựng các Luật Quy hoạch, kế hoạch để áp dụng thống nhất trong cả nước, nhất là về những vấn đề lớn và nhạy cảm như quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội, quy hoạch xây dựng, quy hoạch sử dụng đất... Tăng cường sự kết hợp công tác kế hoạch hóa theo ngành với kế hoạch hóa theo vùng lãnh thổ, đặc biệt đối với các chương trình, đề án, dự án hạ tầng kinh tế - xã hội lớn.

Trong phân cấp trong thu, chi ngân sách... hiện nay còn có sự chồng lấn giữa cấp Trung ương và cấp địa phương đối với cùng một nhiệm vụ chi. Phần lớn các định mức, chế độ, tiêu chuẩn phân bổ và chi tiêu NSNN do Trung ương thống nhất ban hành, song trên thực tế lại chưa thực sự sâu sát, phù hợp vì sự phát triển của từng địa phương có sự khác nhau rất xa, nhất là giữa miền núi, đồng bằng và thành phố. Đã thế, một số bộ, ngành khi ban hành chế độ, chính sách cho ngành mình lại không phối hợp, thống nhất với Bộ Tài chính trong việc xác định rõ nguồn lực tài chính để thực hiện, nên gây không ít khó khăn cho địa phương trong quá trình triển khai. Vì vậy, nhiều địa phương kiến nghị khi ban hành, bổ sung các chính sách mới làm thay đổi tới cán cân thu - chi ngân sách tại địa phương thì cần phải bổ sung kinh phí để thực hiện, đặc biệt đối với những địa phương nghèo chưa tự cân đối được. Về thời điểm xây dựng dự toán ngân sách năm kế hoạch, theo quy định hiện hành chậm nhất là ngày 20-7 của năm trước cũng là quá sớm. Bởi, cơ sở xây dựng dự toán cho năm sau mới chỉ dựa trên cân đối thu - chi của nửa năm hiện tại thì sẽ không đầy đủ, sát thực tế được, dẫn đến phải điều chỉnh, bổ sung nhiều lần, gây tốn kém. Ngoài ra, đề nghị Chính phủ nên phân cấp thu tiền xây dựng đất cho cấp xã để khuyến khích đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng. Cần có cơ chế phân cấp thu, chi đối với các khoản thu ngành thuế đang ủy nhiệm thu cho UBND cấp xã, phường, thị trấn để ràng buộc trách nhiệm của địa phương trong quản lý các khoản thu này. Nên có sự thống nhất giữa cơ quan tài chính và cơ quan thuế đối với các khoản thu “cân đối ngân sách” và “không cân đối ngân sách”, nhất là hai khoản thu phí, lệ phí và thu khác. Hiện nay, NSNN đang thực hiện theo 4 cấp (Trung ương, tỉnh, huyện, xã), vì vậy đề nghị Trung ương có sự hướng dẫn cụ thể khi không có HĐND huyện thì việc cấp ngân sách phải thực hiện như thế nào? Đồng thời, ban hành văn bản quy chế phân định rõ mối quan hệ giữa các bộ, ngành với địa phương trong việc quản lý NSNN theo ngành, lĩnh vực, tránh chồng chéo, trùng lắp về thẩm quyền và trách nhiệm...

B) Nhóm vấn đề kiến nghị của các bộ, ngành Trung ương. Thời gian qua, kinh phí cho công tác duy tu, bảo dưỡng theo định kỳ, định mức sau khi đưa công trình vào khai thác từ NSNN còn hạn chế nên đã ảnh hưởng đáng kể đến tuổi thọ của công trình. Vì vậy, trong lần sửa đổi này của Luật Ngân sách nhà nước cần cân đối hợp lý giữa tỷ lệ chi đầu tư phát triển và tỷ lệ chi thường xuyên. Đề nghị sửa đổi Luật Ngân sách theo hướng cho các đơn vị dự toán cấp I căn cứ vào nhiệm vụ được giao, chủ động quyết định việc giao dự toán cho các đơn vị trực thuộc trên cơ sở dự toán đã được Bộ Tài chính giao. Sau đó, các đơn vị dự toán cấp I tổng hợp các quyết định giao dự toán của mình gửi Bộ Tài chính thẩm định. Vấn đề gì không thống nhất sau thẩm định thì hai bên cùng xem xét, quyết định.

Về kiểm soát chi từ nguồn ngân sách, một số bộ, ngành đề nghị bỏ hình thức kiểm soát như hiện nay, thay vào đó là kiểm soát chi theo kết quả đầu ra. Luật Ngân sách nhà nước sửa đổi cần có những quy định bổ sung hợp lý để tránh mâu thuẫn với một số quy định tại các luật khác mới được ban hành.

Về nhóm vấn đề kiến nghị cụ thể của các bộ, ngành cũng có nhiều ý kiến thời sự, liên quan đến các hoạt động kinh tế - xã hội cả nước. Thí dụ, trong lĩnh vực quản lý tài chính bảo hiểm xã hội theo Quyết định số 41/2007/QĐ-TTg, cho đến nay Bộ Tài chính vẫn chưa ban hành quy định cụ thể về hoạt động đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội.

Trong lĩnh vực khoa học và công nghệ (KH và CN) cần đổi mới cơ chế quản lý, phân cấp để phân định rõ trách nhiệm của bộ, ngành và địa phương trong việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ khoa học và công nghệ. Cần đa dạng hóa các nguồn đầu tư cho KH và CN, tạo cơ hội mở rộng các thành phần xã hội được tiếp cận với các nguồn tài chính của Chính phủ. Đổi mới mạnh hơn cơ chế tài chính của các cơ quan nghiên cứu khoa học theo nguyên tắc tự chủ, tự chịu trách nhiệm. Đối với các tổ chức KH và CN có yếu tố nước ngoài, về lâu dài, nên phân cấp cho các Sở KH và CN địa phương để tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức hoạt động, (nếu được thì phải sửa đổi quy định tại Nghị định số 81 cho phù hợp).

Trong lĩnh vực giao thông vận tải, trước mắt nên phân định rõ các khoản thu phí, lệ phí gắn với mục tiêu, tính chất và đặc điểm của từng loại phí, lệ phí gắn với mục tiêu, tính chất và đặc điểm của từng loại hình cơ quan, đơn vị để xác định các khoản thu nộp ngân sách.

Trong lĩnh vực xây dựng, nhiều ý kiến đề nghị Chính phủ quy định rõ nội dung, lộ trình và trách nhiệm quyền hạn của các bộ, ngành, cơ chế phối hợp trong quá trình thực hiện phân cấp, bảo đảm sự quản lý thống nhất, tập trung và thống suốt trong cả nước. Theo đó, phải tiếp tục cải cách hành chính trong toàn ngành, chống mọi phiền hà, sách nhiễu dân. Tăng cường kiểm tra, kiểm soát chất lượng công trình xây dựng, thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí tài sản....

Trong lĩnh vực tài nguyên và môi trường, các ý kiến tập trung đề nghị sửa đổi, bổ sung Luật Thanh tra, Luật Khiếu nại, tố cáo cho phù hợp với Bộ Luật Đất đai hiện hành. Tăng cường hơn nữa việc phân cấp quản lý tài nguyên nước cho địa phương. Tăng cường hoạt động thanh tra chuyên ngành về môi trường và quản lý chất thải. Chính phủ cần chỉ đạo và làm rõ những bất cập, chồng chéo trong phân cấp quản lý, bảo tồn đa dạng sinh học giữa Bộ Tài nguyên - Môi trường và Bộ nông nghiệp và Phát triển nông thôn. Cần sớm xây dựng Luật Đo đạc và Bản đồ, hoàn thiện và ban hành hệ thống pháp luật về quản lý tổng hợp tài nguyên và môi trường biển, hải đảo, đặc biệt là Luật Biển Việt Nam, Tài nguyên và Môi trường biển và các văn bản hướng dẫn thi hành các luật này...