CPTPP tạo thêm nhiều cơ hội cho doanh nghiệp Nhật Bản và Việt Nam
Từ Hiệp định Đối tác Kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA),…
Sau 45 năm thiết lập quan hệ ngoại giao (tháng 9-1973), Việt Nam và Nhật Bản đã trở thành đối tác ngày càng quan trọng trên nhiều lĩnh vực. Không những thế, từ khi hai nước nâng cấp quan hệ lên “Đối tác chiến lược sâu rộng vì hòa bình và thịnh vượng ở châu Á” (tháng 3-2014), quan hệ Việt Nam - Nhật Bản đã có bước phát triển mạnh mẽ, toàn diện và thực chất.
Nhật Bản là nước G7 đầu tiên đã đón Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Việt Nam (năm 1995), cũng là nước G7 đầu tiên thiết lập quan hệ "Đối tác chiến lược" với Việt Nam (2009). Đồng thời, Nhật Bản là nước G7 đầu tiên công nhận quy chế kinh tế thị trường cho Việt Nam (2011) và cũng là nước G7 đầu tiên mời lãnh đạo Việt Nam tham dự Diễn đàn G7 mở rộng (2016).
Nhật Bản là nước tài trợ ODA lớn nhất cho Việt Nam, tập trung vào các lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng, nâng cao năng lực cạnh tranh, đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao, ứng phó với biến đổi khí hậu và nhiều lĩnh vực khác, đóng góp quan trọng vào công cuộc phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam. ODA của Nhật Bản chiếm khoảng 30% tổng cam kết ODA của cộng đồng quốc tế đối với Việt Nam. Nhiều dự án của Nhật Bản đã hoàn thành và đưa vào khai thác rất hiệu quả, đóng góp lớn vào sự phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam.
Sự giao lưu ngày một gần gũi hơn giữa các địa phương của hai nước, các tổ chức chính trị-xã hội và giữa nhân dân hai nước cũng là một điểm nhấn trong hợp tác. Tính đến thời điểm hiện tại đã có khoảng gần 40 cặp địa phương của Việt Nam và Nhật Bản đã ký kết các văn bản hợp tác với nhau.
Về hợp tác kinh tế, thương mại, Hiệp định Đối tác Kinh tế Việt Nam - Nhật Bản (VJEPA) được ký kết ngày 25-12-2008 và có hiệu lực bắt đầu từ ngày 01-10-2009. Đây là FTA song phương đầu tiên của Việt Nam, trong đó cả Việt Nam và Nhật Bản dành nhiều ưu đãi cho nhau hơn so với FTA ASEAN - Nhật Bản.
Theo nội dung FTA Việt Nam - Nhật Bản, thuế suất bình quân đối với hàng Việt Nam xuất khẩu vào Nhật Bản giảm dần xuống 2,8% vào năm 2018. Khi Hiệp định có hiệu lực, ít nhất 86% hàng nông - lâm - thủy sản và 97% hàng công nghiệp Việt Nam xuất sang Nhật Bản được hưởng ưu đãi thuế.
Đổi lại, thuế suất bình quân đối với hàng nhập khẩu từ Nhật Bản vào Việt Nam sẽ giảm dần, xuống còn 7% vào năm 2018. Các mặt hàng thủy sản, nông sản, dệt may, sắt thép, hóa chất, linh kiện điện tử có mức cam kết tự do hóa mạnh mẽ nhất.
Trong vòng 10 năm, theo thỏa thuận, Việt Nam và Nhật Bản cơ bản hoàn tất lộ trình giảm thuế để xây dựng một khu vực thương mại tự do song phương hoàn chỉnh. Theo đó, 94,53% kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam và 87,6% kim ngạch xuất khẩu của Nhật Bản sẽ được miễn thuế nhập khẩu.
Quan hệ kinh tế, thương mại Việt Nam - Nhật Bản theo Hiệp định Đối tác Kinh tế Việt Nam - Nhật Bản trong 10 năm qua đã phát triển mạnh mẽ, thu được nhiều kết quả.
Năm 2017, tổng kim ngạch thương mại giữa hai nước đạt hơn 33 tỷ USD. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản đạt gần 17 tỷ USD. Thống kê của Bộ Công Thương cho thấy, tính đến đầu tháng 10-2018, tổng trị giá kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản đạt 13,82 tỷ USD, tăng 12,2% so với cùng kỳ 2017. Không những thế, Nhật Bản còn là một trong 4 thị trường mà kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam đạt mốc 10 tỷ USD là Hoa Kỳ, Trung Quốc, Nhật Bản và Hàn Quốc. Đặc biệt, từ đầu năm đến nay Việt Nam đã xuất siêu sang Nhật Bản 141 triệu USD.
Các mặt hàng xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam sang Nhật Bản trong thời gian này chủ yếu là: dệt may đạt 537 triệu USD; phương tiện vận tải đạt 365,2 triệu USD; máy móc thiết bị gần 259 triệu USD…. Đáng chú ý, các nhóm hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang Nhật Bản đều có sự tăng trưởng khá so với cùng kỳ năm ngoái.
Theo khảo sát của Tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản, có tới 70% doanh nghiệp Nhật Bản mong muốn đầu tư mới vào Việt Nam và 66,6% doanh nghiệp Nhật Bản tại Việt Nam có kế hoạch mở rộng hoạt động sản xuất, kinh doanh.
Lũy kế tính đến đầu tháng 4-2018, Nhật Bản có 3.693 dự án FDI còn hiệu lực tại Việt Nam với tổng vốn đầu tư đăng ký hơn 49,8 tỷ USD, đứng thứ hai trong tổng số 116 quốc gia và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Đây là dấu hiệu tích cực và là cơ sở để tin tưởng rằng đầu tư trực tiếp của các doanh nghiệp Nhật Bản vào Việt Nam tiếp tục gia tăng trong những năm tới, mang lại lợi ích thiết thực cho cả hai bên.
Để thu hút làn sóng đầu tư từ Nhật Bản, Việt Nam cần tiếp tục cải cách thủ tục hành chính, nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp, nhất là khối doanh nghiệp nhỏ và vừa, nâng cao năng suất lao động, giữ vững cam kết giữa các nhà đầu tư. Đồng thời, tận dụng tiềm năng hợp tác trong các lĩnh vực mới như: nông nghiệp, du lịch, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, vận tải, phân phối…
Theo các chuyên gia, để đẩy mạnh xuất khẩu, thì việc thực hiện một chiến lược marketing xuất khẩu sang thị trường Nhật Bản là điều phải tính đến trước tiên. Đây là điều kiện tiên quyết để xuất khẩu bền vững sang thị trường Nhật Bản và cũng là góp phần thúc đẩy quan hệ thương mại hai nước phát triển mạnh mẽ trong thời gian tới. Tiếp đó, cần thúc đẩy liên kết kinh tế thông qua tăng cường hợp tác trong lĩnh vực thương mại, đầu tư.
Đồng thời, hai bên cần tạo điều kiện thuận lợi để các mặt hàng nông, thủy sản vào thị trường hai nước nhiều hơn; đồng thời triển khai hiệu quả Sáng kiến chung Việt - Nhật để cải thiện môi trường đầu tư, thúc đẩy hơn nữa làn sóng đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam.
Ngoài ra, cần triển khai kế hoạch hành động của 6 ngành công nghiệp đã được lựa chọn trong Chiến lược Công nghiệp hóa của Việt Nam trong khuôn khổ hợp tác Việt Nam - Nhật Bản hướng đến năm 2020, tầm nhìn 2030 để kim ngạch thương mại giữa hai nước ngày càng tăng trưởng trong thời gian tới.
…đến CPTPP: Thêm nhiều cơ hội cho doanh nghiệp Nhật Bản và Việt Nam
Để khai thác những cơ hội mà CPTPP có thể mang lại cho doanh nghiệp hai nước, mới đây, Đại sứ quán Việt Nam tại Nhật Bản phối hợp với Tổ chức xúc tiến mậu dịch Nhật Bản (JETRO) tổ chức buổi tọa đàm về những lợi ích mà Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương đem lại cho hai nước Việt Nam và Nhật Bản. Với chủ đề “CPTPP và cơ hội cho doanh nghiệp Nhật Bản tại thị trường Việt Nam”, buổi tọa đàm thu hút khoảng 350 khách mời là đại diện các doanh nghiệp Nhật Bản.
Phát biểu khai mạc buổi tọa đàm, Đại sứ Việt Nam tại Nhật Bản Vũ Hồng Nam nhấn mạnh đến nỗ lực của cả Việt Nam và Nhật Bản trong việc xúc tiến thành công tiến trình đàm phán CPTPP với 11 thành viên. Trong bối cảnh CPTPP sẽ chính thức có hiệu lực từ đầu năm 2019, Đại sứ Vũ Hồng Nam bày tỏ tin tưởng rằng hiệp định này sẽ tạo cơ hội lớn về thương mại và đầu tư cho Việt Nam và Nhật Bản cũng như các nước thành viên còn lại trong CPTPP.
Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Quốc Khánh phát biểu tại Tọa đàm.
Thứ trưởng Bộ Công Thương Trần Quốc Khánh nhấn mạnh CPTPP là hiệp định bao trọn một khu vực thị trường khoảng 490 triệu người, chiếm 13% GDP toàn cầu, với thu nhập bình quân đầu người trên 19.000 USD. Theo Thứ trưởng, CPTPP thúc đẩy hội nhập thị trường khu vực châu Á - Thái Bình Dương bằng cách giảm rào cản đối với hàng hóa và dịch vụ thương mại, bảo vệ đầu tư và quyền sở hữu trí tuệ, thiết lập các quy tắc mới cho thương mại điện tử và thúc đẩy cạnh tranh công bằng. Ông đánh giá CPTPP là hiệp định thương mại quan trọng nhất trong hơn hai thập kỷ qua, chứa đựng những cam kết sâu rộng hơn các hiệp định thương mại tự do khác, với các cam kết phù hợp nhất với nhu cầu của các doanh nghiệp lớn và nhỏ. Ông khẳng định CPTPP có ý nghĩa quan trọng vì đây là một sự nâng cấp so với các thỏa thuận tự do thương mại (FTA) hiện có, thúc đẩy tạo các mối quan hệ FTA mới và thiết lập mạng lưới mới, bao gồm chuỗi cung ứng giữa châu Á và châu Mỹ.
Nhận định về tác động tích cực của CPTPP đối với Việt Nam và Nhật Bản, Thứ trưởng Trần Quốc Khánh cho biết CPTPP được dự đoán sẽ mang lại những lợi ích hai chiều hết sức to lớn cho cả Việt Nam và Nhật Bản. Về phía Nhật Bản, CPTPP sẽ cho phép các công ty nước này được quyền tham gia vào thị trường mua sắm chính phủ đang phát triển rất nhanh của Việt Nam, vốn từ trước đến nay đóng cửa với các doanh nghiệp nước ngoài. Đồng thời, các ngành dịch vụ vốn là thế mạnh của Nhật Bản như ngân hàng, bảo hiểm, xây dựng, logistic, kế toán, thiết kế đồ họa cũng sẽ có cơ hội xâm nhập sâu hơn vào thị trường Việt Nam.
Phát biểu tại buổi tọa đàm, Phó Chủ tịch JETRO Yuri Sato bày tỏ tin tưởng Việt Nam sẽ tận dụng được được các lợi ích của hiệp định để thúc đẩy đầu tư và thương mại, thông qua việc cải thiên môi trường đầu tư, cải cách thủ tục hành chính, thuế quan, thúc đẩy sản xuất, nhằm mở rộng sự tiếp cận của hàng hóa Việt Nam đến các thị trường trên thế giới.
Theo bà Sato, Hiệp định thương mại song phương Việt Nam - Nhật Bản đã miễn thuế cho 42% các sản phẩm công nghịêp của Nhật Bản vào Việt Nam, nhưng hiệp định CPTPP đã nâng tỷ lệ miễn thuế này lên mức 70,2% các sản phẩm công nghiệp của Nhật Bản. Bà hy vọng hiệp định sẽ tạo thuận lợi cho nông sản và thực phẩm Nhật Bản vào thị trường Việt Nam hơn.
CPTPP cũng sẽ củng cố vai trò của Việt Nam như cứ điểm sản xuất, xuất khẩu, hướng đến thị trường toàn cầu của các doanh nghiệp Nhật Bản. Ở chiều ngược lại, các doanh nghiệp Việt Nam cũng sẽ nhận được các lợi ích tương tự khi xâm nhập thị trường Nhật Bản.
Hiệp định CPTPP cũng đặt ra các cam kết bảo hộ mạnh nhất từ trước tới nay về quyền sở hữu trí tuệ, bảo hộ đầu tư, trong đó có quyền rút vốn, chuyển tiền, bồi thường công bằng khi bị quốc hữu hóa tài sản và trợ giúp pháp lý. Những điểm này cũng sẽ khuyến khích các doanh nghiệp Nhật Bản tăng cường xuất khẩu công nghệ sang Việt Nam.
Hiệp định CPTPP được dự báo sẽ thúc đẩy mạnh mẽ dòng chảy thương mại và đầu tư giữa hai nước Việt Nam và Nhật Bản. Theo các nhà phân tích, lợi ích mà CPTPP mang lại rất đa dạng, không chỉ giới hạn ở việc cắt giảm các dòng thuế, mà còn tạo ra các cơ hội kinh doanh mới, cũng như làm giảm các thủ tục về thương mại và đầu tư./.
Tuyên dương 166 học sinh, sinh viên dân tộc thiểu số xuất sắc, tiêu biểu  (26/11/2018)
Việt Nam dự Cuộc gặp quốc tế các đảng Cộng sản và công nhân lần thứ 20  (25/11/2018)
Ủy ban châu Âu thông qua thỏa thuận Brexit  (25/11/2018)
Thủ tướng dự Hội nghị xúc tiến đầu tư thương mại, du lịch tỉnh Cao Bằng  (25/11/2018)
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Quan điểm và ứng xử của Trung Quốc trước tình hình thế giới mới
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên