Phát triển công nghiệp tại Hà Nội: Thực trạng và định hướng cho thời gian tới
TCCS - Việc thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội không những góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội nói chung của Thủ đô, mà còn làm thay đổi cơ cấu ngành theo hướng ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp mới. Theo đó, thành phố Hà Nội tập trung phát triển các khu công nghệ cao, khu, cụm công nghiệp mới theo Quy hoạch chung xây dựng Thủ đô Hà Nội đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050. Trước mắt, thành phố ưu tiên các ngành, như: công nghệ thông tin, cơ khí chính xác, thiết bị điện - điện tử, công nghệ sinh học, dược phẩm, sản xuất và sử dụng vật liệu mới…
Hoạt động của các khu công nghiệp tại Hà Nội
Thời gian qua, thành phố Hà Nội đã đặc biệt quan tâm đến hoạt động thu hút đầu tư và cam kết tiên phong về tạo lập môi trường đầu tư, kinh doanh thuận lợi, đồng hành cùng doanh nghiệp. Thành phố đã có những chỉ đạo quyết liệt về xây dựng chính phủ điện tử, tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin, rà soát, đơn giản hóa thủ tục hành chính. Nhiều dịch vụ công liên quan trực tiếp đến doanh nghiệp có thể thực hiện 100% trên môi trường mạng, như: đăng ký kinh doanh, thuế, hải quan, bảo hiểm xã hội; đăng ký quyền sử dụng đất, cấp phép xây dựng… Đồng thời, thành phố tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính thông qua việc ủy quyền cho ban quản lý các khu công nghiệp và chế xuất là đầu mối giải quyết theo cơ chế “một cửa, liên thông” với tất cả các thủ tục hành chính trong khu công nghiệp về đầu tư, quy hoạch xây dựng, lao động, môi trường… Vì thế, hoạt động sản xuất, kinh doanh của các khu công nghiệp của Hà Nội cũng đã đạt được nhiều kết quả, thể hiện như sau:
Hiện nay, trên địa bàn Hà Nội có 9 khu công nghiệp đang hoạt động với tổng diện tích 1.670,6 ha; 3 khu công nghiệp đã thành lập và đang trong quá trình triển khai xây dựng hạ tầng với tổng diện tích 663,4 ha, gồm: khu công nghiệp Quang Minh II, diện tích 160 ha; Khu công nghệ cao sinh học Hà Nội, diện tích 200,6 ha; khu công nghiệp sạch Sóc Sơn, diện tích 302,8 ha.
Với chính sách linh hoạt và nhiều hỗ trợ của Chính phủ và thành phố, tình hình hoạt động sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp cơ bản ổn định. Tuy nhiên, thời điểm hiện tại, sản xuất công nghiệp đang đối mặt với việc sụt giảm đơn hàng những ngành hàng xuất khẩu lớn, như: dệt may, da giày, điện tử, đồ gỗ… Những tháng cuối năm 2022, đầu năm 2023 nhiều doanh nghiệp giảm doanh thu, giảm giờ làm để duy trì và giữ công nhân, rủi ro việc thiếu hụt nguyên vật liệu đầu vào cho sản xuất còn hiện hữu.
Tuy chịu ảnh hưởng của đại dịch COVID-19 và suy giảm kinh tế thế giới, nhưng tốc độ tăng trưởng sản xuất, kinh doanh trong các khu công nghiệp vẫn đạt vượt mức kế hoạch đề ra (năm 2021 tăng 2,3%; năm 2022 tăng 15%).
Theo Ban quản lý các khu công nghiệp và chế xuất Hà Nội, năm 2021, mặc dù chịu ảnh hưởng nặng nề của đại dịch COVID-19, các khu công nghiệp và chế xuất của Hà Nội vẫn thu hút 7 dự án mới với vốn đăng ký 27 triệu USD và 315 tỷ đồng, 26 dự án đầu tư mở rộng vốn đăng ký 147 triệu USD và 2.039 tỷ đồng; tổng mức thu hút đầu tư đạt 275 triệu USD quy đổi, đạt 92% so với kế hoạch năm 2021, gấp 2,3 lần so với cùng kỳ năm 2020.
Năm 2022, các khu công nghiệp của Hà Nội thu hút đầu tư được 9 dự án mới vốn đăng ký 8,5 triệu USD và 611 tỷ đồng, 19 dự án đầu tư mở rộng vốn đăng ký 308 triệu USD và 385 tỷ đồng; tổng mức thu hút đầu tư đạt 359,5 triệu USD quy đổi, đạt 90% hoạch đề ra, gấp 1,5 lần so với cùng kỳ năm 2021.
Quý I-2023, các khu công nghiệp đã thu hút đầu tư được 99 triệu USD quy đổi, trong đó có 1 dự án mới và 9 dự án đầu tư mở rộng, đạt 25% kế hoạch cả năm, tăng 90% so với cùng kỳ năm 2022. Ước 6 tháng năm 2023, thu hút đầu tư đạt 200 triệu USD.
Lũy kế đến nay, các khu công nghiệp đã thu hút được 706 dự án đang hoạt động, trong đó có 301 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài vốn đăng ký trên 6,4 tỷ USD; 405 dự án đầu tư trong nước, vốn đăng ký gần 19.000 tỷ đồng.
Công tác an ninh trật tự trong các khu công nghiệp đã được bảo đảm, công tác tuyên truyền phổ biến pháp luật, định hướng dư luận xã hội được quan tâm, do đó doanh nghiệp và người lao động tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, chấp hành pháp luật của Nhà nước, góp phần tăng giá trị sản xuất công nghiệp, giá trị xuất khẩu, nộp ngân sách của thành phố và thu hút giải quyết việc làm cho nhiều lao động.
Một số hạn chế, thách thức
Mặc dù kết quả thu hút đầu tư vào các khu công nghiệp cơ bản đạt kế hoạch đề ra, nhưng thu hút đầu tư chủ yếu là dự án mở rộng, chưa có dự án mới có quy mô lớn, công nghệ cao. Khu công nghiệp hỗ trợ Nam Hà Nội có giá thuê lại đất cao hơn so với các tỉnh lân cận, mới thu hút được 1 dự án trong nước với vốn đầu tư 210 tỷ đồng; 1 dự án nước ngoài đầu tư 2 triệu USD. Khu công nghệ cao sinh học và Khu công nghiệp Quang Minh II tiến độ triển khai còn chậm. Tình hình phục hồi kinh tế sau đại dịch COVID-19 chậm, chuỗi cung ứng đứt gãy do dịch bệnh từng bước phục hồi có ảnh hưởng đến kế hoạch đầu tư, sản xuất, kinh doanh trong các khu công nghiệp.
Bên cạnh đó, quỹ đất sạch tại các khu công nghiệp hiện cũng không còn nhiều. Nhiều yếu tố, như: chi phí thuê đất, vận tải cao hơn so với các tỉnh lân cận, công tác giải phóng mặt bằng chậm... Cơ bản hạ tầng kỹ thuật đã được hoàn thiện, song còn một số khu công nghiệp nâng cấp từ các cụm công nghiệp cần phải tiếp tục hoàn thiện hạ tầng kỹ thuật và duy trì việc cải tạo, duy tu nâng cấp hạ tầng kỹ thuật để đáp ứng yêu cầu vận hành các khu công nghiệp: Quang Minh I và phần mở rộng; Thạch Thất - Quốc Oai; Phú Nghĩa. Nam Thăng Long từ năm 2008 đến nay vẫn chưa hoàn thành dự án tuyến đường vào của khu công nghiệp do vướng mắc trong công tác giải phóng mặt bằng. Một số chủ đầu tư hạ tầng khu công nghiệp không đầu tư xây dựng, nâng cấp kết cấu hạ tầng khu công nghiệp theo quy hoạch, dẫn đến hạ tầng xuống cấp, chưa hoàn thiện.
Bên cạnh đó, các khu công nghiệp của Hà Nội hiện nay vẫn đang tồn tại một số nhược điểm, như: Quy mô nhỏ, manh mún, chưa đồng bộ về hạ tầng, quản trị, công nghệ; giá trị kinh tế - xã hội từ các khu công nghiệp mang lại cho thành phố cũng chưa cao, trong các khu công nghiệp mới chủ yếu là các doanh nghiệp gia công, lắp ráp, tỷ lệ doanh nghiệp Việt Nam tham gia còn thấp, giá trị gia tăng hạn chế. Thực tế, đây không chỉ là nhược điểm của các khu công nghiệp của Hà Nội mà là thực trạng chung của cả nước.
Những định hướng và giải pháp chủ yếu
Trong bối cảnh kinh tế thế giới được dự báo sẽ tăng trưởng chậm lại, nhiều rủi ro và thách thức tác động đến dòng vốn FDI, thì sự phát triển các khu công nghiệp của nước ta cũng sẽ có những thay đổi với thuận lợi và khó khăn đan xen. Do vậy, để phát triển khu công nghiệp cần có chính sách để tận dụng được cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư và nâng cao hiệu quả thu hút và hợp tác đầu tư nước ngoài theo Nghị quyết số 50-NQ/TW, ngày 20-8-2019 của Bộ Chính trị về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030. Cùng với đó, các định hướng, chủ trương của Đảng, chính sách của Nhà nước trong thời gian gần đây đặt ra yêu cầu về nâng cao hiệu quả phát triển các khu công nghiệp, khu kinh tế theo hướng phát triển bền vững và đổi mới mô hình phát triển, hiệu quả sử dụng đất. Do đó, việc cụ thể hóa chủ trương, chính sách về khu công nghiệp đặc biệt là hoàn thiện thể chế, chính sách để bảo đảm khu công nghiệp, khu kinh tế tiếp tục đóng vai trò là mô hình quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội là yêu cầu cấp thiết.
Cùng với các giải pháp chung của Trung ương, để thúc đẩy phát triển các khu công nghiệp của Hà Nội, trong thời gian tới, cần thực hiện các giải pháp sau:
Thứ nhất, đẩy mạnh thu hút các nhà đầu tư, tháo gỡ khó khăn để đẩy nhanh tiến độ các dự án đầu tư kinh doanh hạ tầng khu công nghiệp và các dự án thứ phát để lấp đầy các khu công nghiệp mới và mở rộng. Theo đó, cần tuyên truyền quảng bá, xúc tiến đầu tư vào khu công nghiệp đặc biệt là khu công nghiệp hỗ trợ Nam Hà Nội. Đẩy nhanh công tác rà soát và điều chỉnh quy hoạch, để tạo cơ sở pháp lý thu hút các nhà đầu tư hạ tầng triển khai các dự án khu công nghiệp mới.
Thứ hai, đẩy mạnh thu hút đầu tư đón dòng vốn đầu tư nước ngoài chuyển dịch từ các nước sang Việt Nam. Định hướng phát triển các ngành nghề sản xuất công nghiệp trong các khu công nghiệp những năm tới là một số ngành công nghiệp có tính chất chủ lực và dẫn đường, như: công nghệ thông tin, công nghiệp vật liệu mới, công nghiệp chế tạo, công nghiệp phụ trợ, điện tử, cơ khí chính xác, dụng cụ y tế, công nghiệp hóa dược nhằm chuyển cơ cấu ngành nghề phù hợp với định hướng phát triển công nghiệp của thành phố giai đoạn 2021 - 2025 và những giai đoạn tiếp theo. Tổ chức đoàn công tác trao đổi, học tập kinh nghiệm tại Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, châu Âu, Mỹ về mô hình phát triển khu công nghiệp kiểu mới và đẩy mạnh kêu gọi thu hút đầu tư vào khu công nghiệp Hà Nội. Tổ chức hội nghị xúc tiến đầu tư tại chỗ đối với các nhà đầu tư nước ngoài trong khu công nghiệp. Tổ chức hội chợ triển lãm, trưng bày, giới thiệu sản phẩm công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ của các doanh nghiệp khu công nghiệp.
Thứ ba, xây dựng phát triển các khu công nghiệp, khu công nghệ cao bảo đảm sự đồng bộ về hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội đáp ứng nhu cầu của các nhà đầu tư, các doanh nghiệp cũng như người lao động để tạo sự phát triển bền vững, gắn bó doanh nghiệp với khu công nghiệp, gắn bó người lao động với doanh nghiệp. Theo đó, Ban quản lý các khu công nghiệp và khu chế xuất cần phối hợp các sở, ban, ngành liên quan xây dựng giải pháp, tham mưu cho Ủy ban nhân dân thành phố từng bước triển khai xây dựng hạ tầng đồng bộ trong các khu công nghiệp nhằm nâng cao đời sống vật chất, văn hóa tinh thần cho công nhân lao động, nhất là thực hiện việc đầu tư xây dựng hoàn thiện các “thiết chế văn hóa”; xây dựng môi trường lành mạnh về an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trong các khu công nghiệp.
Thứ tư, tăng cường nắm bắt tình hình doanh nghiệp trong các khu công nghiệp. Thành uỷ, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân thành phố cần ban hành các chủ trương, chính sách tháo gỡ khó khăn, giải quyết kịp thời những vấn đề phức tạp phát sinh, tạo điều kiện cho doanh nghiệp trong khu công nghiệp phát triển toàn diện. Chủ động nắm bắt tình hình, có giải pháp để giải quyết hiệu quả các tranh chấp giữa doanh nghiệp và người lao động nhằm ngăn chặn không để xảy ra đình công, bãi công giúp các doanh nghiệp ổn định sản xuất, bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động.
Tạo những điều kiện thuận lợi về môi trường đầu tư, kinh doanh, cải cách thủ tục hành chính để cho các doanh nghiệp yên tâm mở rộng phát triển sản xuất, thay đổi công nghệ tiên tiến, tăng giá trị sản xuất công nghiệp, giá trị xuất khẩu nhằm đẩy mạnh tái cơ cấu vốn đầu tư của doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, trọng tâm là rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục hành chính trong việc giải quyết đồng thời các hồ sơ thủ tục hành chính trong lĩnh vực đầu tư. Thực hiện tốt công tác quản lý nhà nước sau cấp giấy chứng nhận đăng ký đầu tư đối với các dự án, nhằm tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp trong khu công nghiệp. Tăng cường công tác phối hợp với các cơ quan chức năng trong việc quản lý nhà nước về đầu tư đối với các dự án trong khu công nghiệp được thực hiện theo đúng quy định. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định pháp luật về đầu tư đến các doanh nghiệp trong khu công nghiệp.
Tiếp tục đổi mới việc tổ chức các hội nghị tập huấn, tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn các doanh nghiệp trong các khu công nghiệp thực hiện tốt pháp luật về lao động, bảo hiểm, thương mại, thuế, bảo vệ môi trường, phòng chống cháy nổ, tiết kiệm năng lượng; các chính sách liên quan đến hoạt động đầu tư kinh doanh và xuất nhập khẩu; thực hiện dịch vụ công trực tuyến… bảo đảm thiết thực, hiệu quả, hướng dẫn, giải đáp được các vướng mắc cho doanh nghiệp.
Thứ năm, thực hiện kiểm tra, giám sát tiến độ giải ngân, hoàn thành mục tiêu, quy mô các dự án đầu tư thứ phát theo giấy chứng nhận đăng ký đầu tư được cấp. Kịp thời tháo gỡ những khó khăn vướng mắc trong quá trình đầu tư. Hướng dẫn các doanh nghiệp thực hiện tốt các quy định của pháp luật về các lĩnh vực: đầu tư, môi trường, quy hoạch xây dựng, lao động, phòng chống cháy nổ. Tiếp tục tăng cường phối hợp công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành các quy định của pháp luật về lao động, đầu tư, tài nguyên môi trường, phòng cháy chữa cháy, quy hoạch xây dựng để bảo đảm các doanh nghiệp thực hiện tốt các quy định của pháp luật.
Phối hợp với các sở, ban, ngành kiểm tra, giám sát môi trường tại các khu công nghiệp. Thực hiện việc lấy mẫu, quan trắc, phân tích môi trường tại doanh nghiệp nhằm đánh giá hiện trạng môi trường của các khu công nghiệp (thường xuyên và đột xuất) hằng năm. Bảo đảm 100% các khu công nghiệp đi vào hoạt động có hệ thống xử lý nước thải chung đạt tiêu chuẩn và được lắp đặt trạm quan trắc nước thải tự động để truyền số liệu về Sở Tài nguyên và Môi trường theo dõi, giám sát theo quy định.
Thứ sáu, đào tạo, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức nhằm đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ và thực hiện tốt các thủ tục hành chính theo thẩm quyền. Đổi mới lề lối, phong cách làm việc, tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, tích cực trong thi hành công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức. Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức viên chức chuyên nghiệp, bản lĩnh đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phát triển các khu công nghiệp, nâng cao hiệu quả, hiệu lực công tác quản lý nhà nước, đồng hành hỗ trợ doanh nghiệp trong các khu công nghiệp./.
Thành phố Hà Nội nâng cao chất lượng dân số vì sự phát triển bền vững  (05/11/2024)
Giữ gìn và phát huy những truyền thống quý báu của Đảng bộ thành phố Hà Nội trong thời kỳ mới  (05/11/2024)
Đổi mới mô hình tăng trưởng tại huyện Sóc Sơn  (03/11/2024)
Không ngừng đổi mới nội dung, phương thức giáo dục đạo đức cách mạng cho đội ngũ cán bộ  (02/11/2024)
Thành phố Hà Nội đẩy mạnh truyền thông y tế trong tình hình mới  (01/11/2024)
- Phát huy vai trò của công tác cán bộ để nâng cao năng lực lãnh đạo, cầm quyền của Đảng
- Ấn Độ: Hướng tới cường quốc kinh tế và tri thức toàn cầu trong nhiệm kỳ thứ ba của Thủ tướng Na-ren-đra Mô-đi
- Một số vấn đề về xây dựng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa: Thành tựu phát triển lý luận của Đảng qua gần 40 năm tiến hành công cuộc đổi mới (kỳ 1)
- Nhìn lại công tác đối ngoại giai đoạn 2006 - 2016 và một số bài học kinh nghiệm về đối ngoại trong kỷ nguyên vươn mình của dân tộc Việt Nam
- Ý nghĩa của việc hiện thực hóa hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
-
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển