Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận, chủ động phòng ngừa, đấu tranh với những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”

Võ Văn Thưởng Ủy viên Bộ Chính trị, Bí thư Trung ương Đảng, Trưởng Ban Tuyên giáo Trung ương
15:52, ngày 11-07-2017

TCCS - Trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày càng sâu rộng, tình hình trong nước và quốc tế đang đặt ra nhiều khó khăn, thách thức phức tạp, khó lường, thậm chí rất gay gắt, việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng là nhiệm vụ then chốt để phát triển đất nước bền vững. Để góp phần đắc lực vào việc xây dựng Đảng ta ngang tầm yêu cầu phát triển đất nước và thời đại, ngành tuyên giáo cần tập trung tham mưu với cấp ủy đảng, đồng thời trực tiếp chỉ đạo, định hướng một số vấn đề sau:

1- Tiếp tục quán triệt sâu sắc, kiên định, kiên quyết, kiên trì tiến hành xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xác định đây là nhiệm vụ chính trị trọng tâm cấp bách, mang tính tất yếu, có ý nghĩa sống còn đối với Đảng, Nhà nước và chế độ.

Từ khi thành lập Đảng đến Đại hội XII của Đảng, do nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan, mức độ suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên có biểu hiện ngày càng trầm trọng, từ “một bộ phận” đến “một bộ phận không nhỏ”; từ thoái hóa về đạo đức, lối sống đến suy thoái, biến chất đổi màu về tư tưởng chính trị. Trước tình hình đó, Đảng chủ động, kiên quyết nâng cao mức độ phòng ngừa và quyết tâm đấu tranh, từ tự phê bình, phê bình, phê phán, lên án, đấu tranh, xử lý kỷ luật đến “kiên quyết, kiên trì” đấu tranh phòng, chống tham nhũng, “lợi ích nhóm”, ngăn chặn “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ; từ việc coi suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống như một thói hư hỏng của cán bộ, đảng viên đến mức coi sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tham nhũng, “lợi ích nhóm” như “cái xấu”, “cái ác” đối với Đảng và nhân dân. Phát biểu tại Hội nghị cán bộ chủ chốt toàn quốc phổ biến, quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng nhấn mạnh: “Cần nhận thức rõ rằng, đấu tranh, ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ là cuộc chiến đầy cam go, nhưng không thể không làm, vì nó liên quan đến vận mệnh của Đảng ta và chế độ ta”. Ngành tuyên giáo các cấp cần tiếp tục quán triệt ý kiến chỉ đạo của Tổng Bí thư đến tất cả cán bộ đảng viên, nhân dân, tạo động lực thực hiện có kết quả Kế hoạch số 04 - KH/TW, ngày 16-11-2016 của Bộ Chính trị “Thực hiện Nghị quyết Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành Trung ương khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng; ngăn chặn đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ” với 14 nhóm nhiệm vụ chủ yếu, 66 nhiệm vụ cụ thể thực hiện theo lộ trình cho các bộ, ngành Trung ương, địa phương. Ban Tuyên giáo Trung ương cần tập trung làm tốt 4 nhóm nhiệm vụ được giao về đổi mới công tác tư tưởng, lý luận của Đảng, đấu tranh phòng, chống “diễn biến hòa bình”.

Trước hết ngành tuyên giáo phải làm cho chủ trương, đường lối của Đảng đi vào thực tiễn đời sống của đất nước, tạo được sự thống nhất trong Đảng, sự đồng thuận trong xã hội. Công tác tư tưởng, lý luận phải tự vượt lên, đổi mới mạnh mẽ, khắc phục bằng được những hạn chế, yếu kém; tổ chức quán triệt triển khai có hiệu quả các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, không để đảng viên hoài nghi, quần chúng thờ ơ, mơ hồ.

Thực tế cho thấy, việc triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng thời gian qua còn một số hạn chế, thiếu sót như:

- Công tác tuyên truyền chưa được thường xuyên, chỉ tập trung vào những thời điểm mới ban hành nghị quyết, chủ yếu đưa tin hoạt động các hội nghị học tập nghị quyết, chưa chú trọng việc thông tin làm rõ những điểm mới của các nghị quyết, những cách làm tốt, những điển hình hay trong triển khai thực hiện nghị quyết.

- Cấp ủy, nhất là người đứng đầu cấp ủy chưa gương mẫu trực tiếp quán triệt, phổ biến nghị quyết, không ít nơi chủ yếu dựa vào chuyên gia, thu - phát băng; mới chú ý trình bày những nội dung chính của nghị quyết, chưa liên hệ, đánh giá đầy đủ những vấn đề đang nổi lên, những bức xúc, “điểm nghẽn” tại cơ quan, đơn vị, địa phương; chưa đề ra chương trình hành động sát thực để giải quyết.

- Việc kiểm tra, đôn đốc, sơ kết, tổng kết việc thực hiện các nghị quyết của Đảng không được tiến hành kịp thời, có nơi, có lúc chỉ mang tính hình thức, thiên về thành tích, nhẹ đánh giá hạn chế, yếu kém, khuyết điểm.

- Trong học tập, triển khai nghị quyết, nhiều cấp ủy thường chỉ quan tâm tới công tác lãnh đạo, chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội, các nhiệm vụ về xây dựng Đảng chưa được lãnh đạo, chỉ đạo đúng mức, ở một số nơi “khoán trắng” cho các ban, ngành chức năng (chủ yếu là tổ chức, tuyên giáo, dân vận)... Những hạn chế này đã tạo ra tiền lệ không tốt, làm hạn chế hiệu quả công tác tư tưởng, lý luận của Đảng. Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII vừa được triển khai thực hiện, nhưng dư luận xã hội (kể cả trong Đảng) bắt đầu có sự hoài nghi về tính hiệu quả. Để khắc phục tình trạng trên, các cấp ủy đảng, nhất là người đứng đầu phải nghiêm túc rút kinh nghiệm, kiên quyết xốc lại công tác tư tưởng trong ngành mình, tại địa phương mình. Lực lượng tuyên giáo cần tham mưu các cấp ủy thường xuyên, tích cực hơn nữa.

2- Đấu tranh không khoan nhượng trên mặt trận tư tưởng, lý luận, làm thất bại mọi âm mưu chống phá của các thế lực thù địch, phản động, bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng, củng cố niềm tin của nhân dân với Đảng.

Là lực lượng xung kích trên mặt trận tư tưởng của Đảng, trong tình hình hiện nay ngành tuyên giáo cần phải tiếp tục đẩy mạnh tuyên truyền, giáo dục, đấu tranh với những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong lĩnh vực tư tưởng, lý luận chính trị:

Thứ nhất, đấu tranh với các biểu hiện xa rời tôn chỉ mục đích, lý tưởng của Đảng. Đảng ta là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động, của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của dân tộc. Ngoài lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động, của dân tộc, của đất nước, Đảng không có lợi ích nào khác. Lý tưởng của Đảng là lãnh đạo nhân dân đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Độc lập dân tộc - chủ nghĩa xã hội là đường lối chính trị xuyên suốt, nhất quán của Đảng, phản ánh quy luật khách quan của cách mạng Việt Nam và lợi ích cơ bản của nhân dân ta.

Khi Đảng chưa giành được chính quyền, hoặc khi Đảng phải tuyên bố tự giải tán rút vào hoạt động bí mật, hay khi đất nước trong hoàn cảnh chiến tranh khốc liệt, phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thử thách, điều kiện tuyên truyền, giáo dục, giác ngộ quần chúng cách mạng còn rất thiếu thốn, đơn sơ, nhưng trong bất kỳ hoàn cảnh nào, Đảng ta vẫn thực hiện một cách chủ động, sáng tạo trên mặt trận tư tưởng chính trị, lý luận, làm cho cán bộ, đảng viên và quần chúng thông suốt lý luận, đường lối chiến lược của Đảng, cán bộ, đảng viên luôn biết chịu đựng gian khổ, hy sinh, luôn xác định mình là “công bộc của dân”, vì nhân dân sẵn sàng đi trước “mở đường”, nhờ vậy mà xây dựng, bồi đắp được mối quan hệ, gắn bó máu thịt giữa Đảng với nhân dân, xây dựng được niềm tin son sắt của nhân dân dành cho Đảng. Chính nhờ niềm tin son sắt ấy, cách mạng có được sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tạo nên làn sóng cách mạng như triều dâng thác đổ, nhấn chìm, quét sạch bè lũ cướp nước, bán nước. Sau ngày đất nước thống nhất, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh vô vàn khó khăn, thách thức, nhất là khi Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, nhờ có sự kiên định mục tiêu, lý tưởng và quyết tâm đổi mới, nhờ làm tốt công tác giáo dục tư tưởng, chính trị trong Đảng, nên đã tạo động lực tinh thần cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân giành được những thành tựu to lớn, có ý nghĩa lịch sử.

Thứ hai, đấu tranh với các biểu hiện hoài nghi, phủ nhận, thiếu kiên định chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; không nghiêm túc học tập, quán triệt nghị quyết của Đảng, nói và làm không đúng chủ trương, đường lối của Đảng.

Những thắng lợi vẻ vang của cách mạng Việt Nam trong suốt 87 năm qua đều bắt nguồn từ việc vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào điều kiện cụ thể của nước ta ở mỗi giai đoạn lịch sử; trong đó bài học đắt giá nhất là sử dụng sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc để đánh tan bạo lực phản cách mạng. Trong quá trình vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng ta luôn đề cao phương châm “chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo”, luôn đấu tranh khắc phục bệnh giáo điều hoặc chủ quan duy ý chí, cảnh giác ngăn ngừa nguy cơ chệch hướng về đường lối. Hiện nay, trên thực tế có những đảng viên tỏ rõ thái độ hoài nghi tính đúng đắn, tính chân lý của chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; thậm chí có đảng viên cho rằng: “Chủ nghĩa Mác - Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh bây giờ lạc hậu rồi”. Đây là sự suy thoái nghiêm trọng về tư tưởng chính trị, sự mất phương hướng lý luận cách mạng. Khi được kết nạp Đảng, mỗi đảng viên đều tuyên thệ “suốt đời trung thành phấn đấu cho lý tưởng cách mạng của Đảng, kiên định với chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, luôn học tập, trau dồi phẩm chất đạo đức cách mạng...”, vậy mà sau khi được vào Đảng, được giao chức quyền, do không chịu học tập, nâng cao trình độ lý luận, chủ quan, tự mãn với kinh nghiệm đã có, một số người lại hoài nghi với hệ tư tưởng của Đảng, bài xích Đảng của mình - đó chính là sự vi phạm nguyên tắc Đảng, thiếu tư cách đạo đức chính trị người cán bộ, đảng viên, làm tổn hại đến uy tín của Đảng. Một số người có biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, tỏ ra hoang mang, dao động, hoài nghi, xa rời tôn chỉ mục đích, lý tưởng cao đẹp của Đảng, tác động xấu đến nhận thức, niềm tin của cán bộ, đảng viên, nhân dân vào chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của đất nước ta. Trên thực tế, những con người này “trên trán mang hai chữ cộng sản” nhưng việc làm lại trái với tôn chỉ, mục đích, lý tưởng của Đảng, làm xói mòn lòng tin của nhân dân, tạo kẽ hở cho các thế lực thù địch, phản động chống Đảng, phá Đảng. Công tác tư tưởng, lý luận cần kiên quyết đấu tranh, phê phán khắc phục biểu hiện nguy hại này. Hoài nghi, ngoảnh mặt với lý luận chính trị, thiếu kiên định lập trường tư tưởng chính trị, “coi khinh lý luận”, như Bác Hồ cảnh báo, là một căn bệnh nguy hiểm có thể dẫn đến những hậu quả khôn lường.

Qua thực tế kiểm tra việc học tập Nghị quyết Đại hội XII của Đảng, Chỉ thị số 05-CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh”, Nghị quyết Hội nghị Trung ương 4 khóa XII về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng cho thấy, còn không ít cán bộ, đảng viên học tập nghị quyết, xây dựng chương trình, kế hoạch hành động chưa đúng chỉ đạo, vẫn còn hình thức, học cốt để ghi tên, không đọc tài liệu, không thảo luận, thậm chí có người chủ quan cho rằng nghị quyết không có gì mới, biết cả rồi. Những người học nghị quyết của Đảng đối phó như vậy không thể đủ vốn kiến thức lý luận và bản lĩnh chính trị để tuyên truyền, vận động nhân dân, làm ngọn đèn soi sáng, lan tỏa nghị quyết của Đảng vào địa phương, cơ quan, đơn vị, thậm chí, có người không hiểu, nói và làm trái với nghị quyết, sai đường lối, chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước. Công tác tư tưởng, lý luận cần tập trung đấu tranh có sức thuyết phục, khoa học để bảo vệ vững chắc nền tảng tư tưởng của Đảng.

Thứ ba, đổi mới, nâng cao chất lượng hiệu quả công tác giáo dục lý luận chính trị trong Đảng, trong hệ thống giáo dục quốc dân.

Cả nước hiện có khoảng 700 trung tâm giáo dục chính trị cấp huyện, 63 trường chính trị cấp tỉnh, 04 học viện chính trị khu vực, 01 Học viện Báo chí và Tuyên truyền, 01 Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 01 Học viện Hành chính quốc gia. Đây là những cơ sở chuyên đào tạo, bồi dưỡng chính trị và quản lý nhà nước cho đội ngũ cán bộ, đảng viên các cấp, kể cả bồi dưỡng cho những đối tượng dự nguồn vào Đảng, dự nguồn quy hoạch các chức danh trong hệ thống chính trị. Theo báo cáo hằng năm, sau từng nhiệm kỳ, các cơ sở này đã đào tạo, bồi dưỡng được một số lượng rất lớn, nhiều cấp độ với nhiều đối tượng khác nhau (hàng triệu lượt người mỗi năm), nhưng chất lượng lại chưa được như mong muốn do những cơ sở đào tạo thì chạy theo số lượng, chạy theo bề nổi (cấp được nhiều văn bằng, chứng chỉ, kể cả đào tạo trình độ cao, như thạc sĩ, tiến sĩ); còn người học thì cốt “chạy” xong chương trình, hoàn thành khóa học với những điểm số đẹp, có đủ điều kiện “quan trọng và quyết định” cho sự đề bạt, thăng tiến, không chú trọng mục đích nâng cao bản lĩnh, trình độ chính trị để đáp ứng yêu cầu công việc được tổ chức đảng phân công. Hệ thống giáo dục quốc dân có hàng nghìn trường từ cấp tiểu học đến trung học, cao đẳng, đại học (riêng đại học, học viện, cao đẳng có gần 800 cơ sở), tùy từng mức độ khác nhau mà có các chương trình giáo dục tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống (chưa kể các chuyên đề và các loại hình gắn với việc thực hiện Chỉ thị số 03, Chỉ thị số 05), nhưng chương trình và tài liệu lạc hậu, lối dạy nhồi nhét, nội dung khô cứng, không cuốn hút được học sinh, sinh viên. Vậy nên kết quả thấp, người học không hiểu đúng giá trị, ý thức, tác dụng của lý luận chính trị, ngược lại có tâm lý ngại, chán học lý luận chính trị. Bên cạnh đó còn nhiều bất cập, hạn chế, yếu kém trong công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu khoa học về những vấn đề cơ bản, những vấn đề mới có tính bổ sung, phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong tình hình mới của thế giới và Việt Nam. Thực tế nêu trên đang là mối quan tâm, trăn trở của lãnh đạo Đảng, Nhà nước, đòi hỏi ngành tuyên giáo phải đầu tư nhiều công sức vào công tác tham mưu cho Bộ Chính trị, Ban Bí thư lãnh đạo, chỉ đạo quyết liệt, sớm khắc phục tình trạng “lý luận chạy theo thực tiễn, minh họa thực tiễn” hoặc xa rời thực tiễn.

Thứ tư, đấu tranh với các biểu hiện chạy theo chủ nghĩa thực dụng, hám lợi; không kế tục, phát triển truyền thống vẻ vang, những giá trị đạo đức cách mạng và lẽ sống cao đẹp của các bậc tiền bối, không làm gương sáng cho quần chúng noi theo, làm tổn hại đến biểu tượng Đảng quang vinh và dân tộc anh hùng.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, đảng viên của Đảng luôn chấp nhận gian khổ, hy sinh, phấn đấu cho sự nghiệp chung, tiên phong, gương mẫu chiến đấu vì tương lai dân tộc, không màng danh lợi riêng tư. Chỉ có như vậy, Đảng mới có đủ uy tín lãnh đạo sự nghiệp cách mạng, mang lại tự do, hạnh phúc cho nhân dân, đưa đất nước vững bước hướng tới tiền đồ tươi sáng. Nhưng hiện nay, có những cán bộ, đảng viên quay lại phủ nhận sự nghiệp đấu tranh gian khổ, vẻ vang của Đảng, của dân tộc, cho đó là “mất mát vô nghĩa; lẽ ra không cần phải kháng chiến mà vẫn giữ được độc lập dân tộc”. Đây không chỉ là sự nhầm lẫn vô thức mà còn là sự cố ý xuyên tạc lịch sử dân tộc được Đảng, Bác Hồ và nhân dân viết nên bằng máu xương. Thắng lợi của dân tộc ta là kết quả của sức mạnh chân lý thời đại từ chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh. Xét về mặt đạo đức, đó là sức mạnh của chính nghĩa thắng hung tàn, của điều thiện trước điều ác; là sức mạnh của lòng yêu nước, thương nòi. Đáng tiếc, những giá trị cao quý như vậy đã bị phủ mờ bởi những tư tưởng cơ hội chính trị, cực đoan với trăm sắc màu được khoác áo “phản biện dân chủ”, “xét lại lịch sử”. Thực tế ngày càng xảy ra nhiều vụ, việc đau lòng, với nhiều cấp độ phức tạp, nhạy cảm liên quan đến công tác phòng, chống tham nhũng, suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống. Căn nguyên được quy lại là do sự biến dạng, những sai phạm, yếu kém của công tác tổ chức, cán bộ của Đảng; công tác kiểm tra, giám sát chưa thường xuyên, nghiêm túc, nhiều vụ, việc được phanh phui trước hết từ dư luận xã hội, báo chí; xử lý vi phạm của cán bộ, đảng viên được cho là nghiêm minh, đúng pháp luật, đúng nguyên tắc, kỷ luật Đảng, nhưng dư luận vẫn cho là còn “nương tay”, mức kỷ luật chưa đủ răn đe, chưa thể hiện tính quyết liệt của Đảng trong đấu tranh phòng, chống tham nhũng; cán bộ, đảng viên bị kỷ luật nhưng người đứng đầu và tổ chức cơ sở đảng nơi đó lại vô can; người có tinh thần đấu tranh chính trực nhiều khi bị “lãnh đủ” búa rìu chính trị, người xun xoe, xu nịnh lại nhận được nhiều “ân thưởng”.

Tuyệt đối trung thành với Đảng trước hết phải tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng của Đảng, với sự nghiệp “phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân” của Đảng, thể hiện bằng lời nói và hành động thực tiễn. Được nhân dân tin tưởng, đi theo Đảng, coi tấm gương của cán bộ, đảng viên là hiện thân của một Đảng chân chính, một Đảng văn minh, đạo đức - đó là thước đo vàng đối với danh dự và vị thế của Đảng.

3- Nâng cao chất lượng, hiệu quả đấu tranh, tự phê bình và phê bình trong các tổ chức cơ sở đảng, đề cao tính gương mẫu của cán bộ, đảng viên, nhất là người đứng đầu; coi trọng việc xây dựng con người và văn hóa đạo đức Việt Nam trong thời kỳ mới.

Một là, đổi mới sâu sắc công tác tự phê bình và phê bình trong Đảng, xây dựng phong cách biết lắng nghe và thái độ cầu thị của cán bộ, đảng viên.

Công tác tự phê bình và phê bình trong Đảng phải được đổi mới sâu sắc, bằng những giải pháp, biện pháp, quy chế, quy định chặt chẽ. Trước hết cần kiên quyết khắc phục: Lối “phê bình và tự phê bình” một cách chung chung, “dĩ hòa vi quý”, nể nang trong nhận xét, cào bằng trong xếp loại, đánh giá cán bộ và tổ chức đảng; trong họp thì không nói, ra ngoài cuộc họp thì đủ ý kiến bức xúc, trước mặt lãnh đạo thì khen toàn những “lời hay ý đẹp”, nhưng sau lưng thì chê bai đủ điều; khi nhận nhiệm vụ thì nói sẵn sàng, quyết tâm, nhưng vào cuộc thì hững hờ, làm qua loa, đùn đẩy trách nhiệm; nhìn đâu cũng thấy toàn khuyết điểm, yếu kém, nhưng cá nhân mình, đơn vị mình thì không có gì phải chỉnh đốn. Người đứng đầu cơ quan, đơn vị phải lãnh đạo, chỉ đạo nghiêm và làm gương trong công tác tự phê bình và phê bình trong từng tổ chức cơ sở đảng, trong từng cơ quan, đơn vị; nội dung và cách thức tự phê bình và phê bình cần bám sát vào 27 biểu hiện “suy thoái”, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; lấy việc thực thi công vụ của cơ quan, đơn vị để đối chiếu với yêu cầu mà đánh giá mức độ kết quả công tác. Góp ý, phê bình phải xuất phát từ tình đồng chí chân thành, mong muốn đồng chí mình phải tốt hơn, hoàn thành nhiệm vụ ở mức độ cao hơn; sau góp ý phải theo dõi, đánh giá việc sửa đổi, phải căn cứ vào mức độ tiến bộ, hiệu quả công việc, giá trị đóng góp, cống hiến để đánh giá cán bộ, đảng viên.

Hai là, công tác giáo dục lý luận chính trị phải được đổi mới căn bản, toàn diện, góp phần trang bị cho người học nhân sinh quan, thế giới quan cộng sản và đạo đức cách mạng theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh.

Trước hết là đổi mới chương trình bồi dưỡng trong trường chính trị cấp tỉnh, thành, các trung tâm chính trị cấp huyện theo hướng tinh giản, cập nhật những điểm mới trong Nghị quyết Đại hội XII và các nghị quyết, chỉ thị mới được ban hành. Cần chú trọng trau dồi, bồi dưỡng lý tưởng, đạo đức cách mạng đối với học viên. Bồi dưỡng lý luận chính trị, như Chủ tịch Hồ Chí Minh căn dặn, không chỉ trang bị thế giới quan khoa học mà cần xây dựng nhân sinh quan để “sống với nhau cho có nghĩa, có tình”. Các cấp ủy đảng cần lãnh đạo, chỉ đạo sát sao công tác tổ chức thực hiện chương trình mới, kiểm tra, giám sát thường xuyên, chặt chẽ bảo đảm kỷ luật, kỷ cương toàn bộ hoạt động của các trường, trung tâm giáo dục chính trị; khắc phục tình trạng thiếu thốn cơ sở vật chất và thiết bị, thiếu tính thống nhất đầu mối chỉ đạo chuyên môn và đầu mối quản lý hành chính. Khắc phục bằng được tình trạng tổ chức học chính trị theo kiểu phong trào “chuẩn hóa trình độ lý luận chính trị” nặng về số lượng, loại hình mà thấp về chất lượng. Các trường, trung tâm chính trị cần xác định rõ tính chất, mục đích, yêu cầu đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị cho xứng tầm với đối tượng là đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cấp huyện, cấp tỉnh; chương trình, tài liệu, phương pháp đào tạo, bồi dưỡng cần được Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh chủ trì, phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu, đổi mới, làm sao để mỗi cán bộ thuộc diện được học phải được trang bị những kiến thức lý luận cơ bản, sát thực với bối cảnh mới (nhất là ở tỉnh, thành phố của mình), từ đó nắm bắt những vấn đề đang đặt ra trên địa bàn, trong lĩnh vực công tác của mình; những hiểu biết sâu sắc về tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh; tránh tư tưởng học lấy văn bằng, chứng chỉ để “lên chức” trong khi vốn hiểu biết lý luận chính trị, vốn thực tiễn, tri thức về văn hóa, đạo đức, về phương pháp, phong cách công tác lại hạn chế. Hội đồng Lý luận Trung ương, Hội đồng Khoa học các cơ quan Đảng Trung ương, Hội đồng Lý luận phê bình văn học, nghệ thuật Trung ương cần tích cực tham gia công tác tuyên truyền, giáo dục lý luận chính trị, phù hợp chức năng, nhiệm vụ; định hướng nghiên cứu, chắt lọc quảng bá kết quả nghiên cứu để xây dựng báo cáo tư vấn với Bộ Chính trị, Ban Bí thư và góp phần vào công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ.

Chương trình đào tạo, bồi dưỡng lý luận chính trị nên được cấu trúc lại, tránh sự trùng lắp kiến thức cơ bản, bảo đảm tính liên thông với các cấp độ đào tạo, bồi dưỡng. Đồng thời, cần đẩy mạnh công tác nghiên cứu những vấn đề mới đang được đặt ra trong thực tiễn cách mạng trong nước và thế giới, nhất là những vấn đề vận dụng chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào việc giải đáp, tháo gỡ vướng mắc về lý luận, tư tưởng chính trị trong từng lĩnh vực (chung cho cả nước, riêng cho lĩnh vực cụ thể); vào việc xây dựng nền tảng văn hóa, đạo đức của Đảng trong thời kỳ mới.

Ba là, chỉ đạo, định hướng nội dung thông tin trên báo chí trong sáng tác quảng bá các tác phẩm văn hóa, nghệ thuật, góp phần hình thành những giá trị tốt đẹp của con người và dân tộc Việt Nam trong thời kỳ mới.

Mỗi thông tin trên báo chí và các phương tiện truyền thông, mỗi sáng tác trên lĩnh vực văn học, nghệ thuật đều phải là những con thuyền “tải đạo” góp phần vào sự nghiệp “trồng người”, vào việc bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau; đồng thời đó cũng là vũ khí sắc bén để lên án, đấu tranh chống sự suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, đánh bại âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hòa bình” của các thế lực thù địch, ngăn chặn nguy cơ “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội bộ. Muốn hoàn thành sứ mệnh cao cả của mình, những người làm công tác báo chí, xuất bản, văn hóa, văn học, nghệ thuật phải vươn lên, tự giác soi xét, khắc phục hạn chế, khuyết điểm trong tác nghiệp, như không thực hiện đúng chức năng chính trị, chức năng xã hội và chức năng nghệ thuật; đưa tin, sáng tác, quảng bá các sản phẩm báo chí, xuất bản, văn hóa, nghệ thuật một cách dễ dãi, thiếu tôn trọng công chúng. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là không quán triệt sâu sắc quan điểm chỉ đạo của Đảng đối với báo chí, xuất bản, văn hóa, văn học, nghệ thuật, không trung thành với tôn chỉ, mục đích của báo chí cách mạng, của văn hóa, văn học, nghệ thuật cách mạng; thiếu trách nhiệm trước nhân dân, trước công chúng; mơ hồ hoặc ngụy biện bởi cái gọi là “dân chủ” trong phản biện xã hội, trong “tự do ngôn luận”, trong hoạt động xuất bản, văn hóa, văn học, nghệ thuật.

Để sớm khắc phục những khuyết điểm, yếu kém nêu trên, trước hết phải xây dựng cơ chế đủ mạnh, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, định hướng đối với hoạt động báo chí, xuất bản, văn hóa, văn học, nghệ thuật; đồng thời xây dựng cơ chế, tạo diễn đàn đối thoại dân chủ để phát huy tài năng, tính sáng tạo, tính tích cực chính trị xã hội và vai trò giám sát, phản biện của báo giới, văn nghệ sĩ. Đổi mới việc tổ chức lực lượng và phương thức đấu tranh với những quan điểm sai trái, thù địch, vạch trần âm mưu lợi dụng báo chí, văn học, nghệ thuật để làm “cuộc đảo chính tư tưởng chính trị” và hủy diệt văn hóa dân tộc; chú trọng đào tạo, bồi dưỡng, trọng dụng, sàng lọc để thực sự có được đội ngũ báo giới, văn nghệ sĩ “lòng trong, bút sắc”, đủ tâm và đủ tầm phản ánh trung thành sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc, có sức cổ vũ, thôi thúc cả dân tộc đồng lòng hướng theo ngọn cờ lãnh đạo của Đảng, phấn đấu vì một Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh./.