An sinh xã hội và công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay

Phạm Xuân Nam GS, TS. Viện Hàn lâm Khoa học xã hội Việt Nam
21:22, ngày 30-09-2016

TCCS - An sinh xã hội và công bằng xã hội là mơ ước của nhân loại tiến bộ trên thế giới. Ở Việt Nam, cùng với thúc đẩy tăng trưởng kinh tế theo định hướng xã hội chủ nghĩa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo đảm an sinh xã hội là một trong những nội dung chủ yếu trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của đất nước.

1- Theo nghĩa rộng, an sinh xã hội - bộ phận cấu thành quan trọng của công bằng xã hội - là sự bảo đảm thực hiện các quyền con người được sống trong hòa bình; được tự do làm ăn, cư trú, di chuyển; được bảo vệ, bình đẳng trước pháp luật; được học tập, có việc làm, có nhà ở; được bảo đảm thu nhập để thỏa mãn những nhu cầu thiết yếu khi bị tai nạn, ốm đau, già yếu,... Còn theo nghĩa hẹp, an sinh xã hội là sự bảo vệ của xã hội đối với các thành viên của mình thông qua một loạt biện pháp công cộng nhằm khắc phục những khó khăn gây ra bởi thiên tai, ốm đau, thai sản, tai nạn lao động, thất nghiệp, tàn tật, tuổi già, đồng thời bảo đảm chăm sóc y tế và trợ cấp y tế cho các gia đình có con nhỏ, những người già cô đơn, trẻ em mồ côi lang thang cơ nhỡ,...

Xét về nguồn gốc lịch sử, một số hoạt động cứu tế xã hội, được xem như mầm mống của an sinh xã hội sau này, vốn đã được các tổ chức tôn giáo và các nhóm thiện nguyện trong cộng đồng dân cư tại nhiều nước ở cả phương Đông và phương Tây thực hiện từ hàng ngàn năm trước. Song việc xác định xem những nhà tư tưởng và những nhà hoạt động chính trị - xã hội nào đã có công đề xướng lý luận và giải pháp xây dựng một số chính sách an sinh xã hội đầu tiên trên thế giới thì vẫn còn là vấn đề cần được làm sáng tỏ thêm.

Cho đến nay, đại đa số các nhà xã hội học phương Tây đều quy công cho Ôt-tô Von Bít-mắc (Otto Von Bismarck) là người thứ nhất trên thế giới đã ban hành mấy đạo luật về bảo hiểm tai nạn, bảo hiểm người già tại nước Đức vào giữa thập niên 80 của thế kỷ XIX; còn nhà cải cách kinh tế người Anh Uy-liam Hen-ri Be-vơ-rít (William Henry Beveridge) thì được xem là người thứ hai đã đề nghị Quốc hội thông qua một số chính sách an sinh xã hội tại nước mình vào năm 1942. Tuy nhiên, trước đề nghị của U. H. Be-vơ-rít 67 năm và trước cả các đạo luật về bảo hiểm xã hội của Ô. V. Bít-mắc trên dưới một thập niên, chính Các Mác đã nêu lên những quan điểm làm căn cứ lý luận cho việc xây dựng hệ thống chính sách an sinh xã hội dưới chủ nghĩa xã hội, mà ông xem đó là một chế độ xã hội tiến bộ và công bằng hơn, theo quy luật tiến hóa của lịch sử, sẽ thay thế cho chế độ tư bản đương thời, mặc dù quá trình thay thế ấy sẽ phải trải qua những chặng đường quanh co, khúc khuỷu và lâu dài.

Thật vậy, trong tác phẩm Phê phán Cương lĩnh Gô-ta viết năm 1875, sau khi bác bỏ quan niệm phi thực tế của phái Lát-xan - một phái trong Đảng Công nhân Dân chủ - xã hội Đức hồi bấy giờ - cho rằng dưới chủ nghĩa xã hội mỗi người lao động phải nhận được “thu nhập không bị cắt xén của lao động”, C. Mác đã đưa ra những luận điểm có tầm bao quát rộng về việc phân phối và phân phối lại tổng sản phẩm xã hội nhằm thực hiện công bằng xã hội an sinh xã hội.

Theo C. Mác, trước khi phân phối cho người lao động, “Trong tổng sản phẩm đó, phải khấu đi:

Một là, phần để thay thế những tư liệu sản xuất đã tiêu dùng.

Hai là, một phần phụ thêm để mở rộng sản xuất.

Ba là, một quỹ dự trữ hoặc quỹ bảo hiểm đề phòng những tai nạn, những sự rối loạn do các hiện tượng tự nhiên gây ra, v.v..

Những khoản khấu trừ như thế vào “thu nhập không bị cắt xén của lao động” là một tất yếu kinh tế, và khấu trừ nhiều hay ít là tùy theo những tư liệu và những lực lượng hiện có...

Còn lại phần kia của tổng sản phẩm thì dành làm vật phẩm tiêu dùng. Trước khi tiến hành phân phối cho cá nhân, lại còn phải khấu trừ:

Một là, những chi phí quản lý chung, không trực tiếp thuộc về sản xuất...

Hai là, những khoản dùng để cùng chung nhau thỏa mãn những nhu cầu, như trường học, cơ quan y tế, v.v..

Ba là, quỹ cần thiết để nuôi dưỡng những người không có khả năng lao động, v.v.., tóm lại là những cái thuộc về việc mà ngày nay, người ta gọi là cứu tế xã hội của nhà nước”(1).

Từ những luận điểm nêu trên của C. Mác, ta có thể rút ra một số nhận thức có liên quan đến vấn đề mà ngày nay xã hội học hiện đại quy vào ba chức năng của hệ thống chính sách an sinh xã hội trong mọi quốc gia trên thế giới. Đó là phòng ngừa rủi ro, giảm thiểu rủi ro và khắc phục rủi ro cho các công dân của mỗi nước.

Thứ nhất, việc chủ động “phòng ngừa rủi ro” cho tuyệt đại đa số người dân trong xã hội nhất thiết phải được đặt ra trong mối quan hệ tương tác với quá trình tái sản xuất giản đơn và tái sản xuất mở rộng của nền kinh tế quốc dân ở từng nước.

Thứ hai, việc “giảm thiểu rủi ro” cho những đối tượng có liên quan cần được xem xét kỹ và giải quyết chu đáo về cả hai phương diện xã hội và tự nhiên, không thể coi nhẹ một phương diện nào.

Thứ ba, ngoài việc lập ra các quỹ để phòng ngừa rủi ro, giảm thiểu rủi ro như trên vừa nêu, từ tổng sản phẩm xã hội còn phải lập ra một quỹ cần thiết để nuôi dưỡng mà thực chất là để “khắc phục rủi ro” cho những người không có khả năng lao động.

Dĩ nhiên, do hạn chế của điều kiện lịch sử cách đây gần 150 năm về trước, C. Mác chưa thể dự báo được đầy đủ về sự phát triển hết sức phong phú và đa dạng hệ thống chính sách an sinh xã hội như ngày nay ở nhiều nước - nhất là những nước theo trào lưu dân chủ - xã hội ở Bắc Âu - đang thực hiện. Ngoài ra, do quan niệm của C. Mác và Ph. Ăng-ghen thời bấy giờ còn nghiêng về việc xây dựng mô hình chủ nghĩa xã hội nhà nước, nên các ông đã nêu lên ý tưởng “phải biến việc bảo hiểm cho công nhân hoàn toàn thành công việc của nhà nước”(2) mà chưa thấy sự cần thiết phải xã hội hóa các nguồn thu của quỹ bảo hiểm xã hội.

2- Vào nửa đầu thế kỷ XX, trong hành trình tìm đường cứu nước, cứu dân, Chủ tịch Hồ Chí Minh, khi đó là Nguyễn Ái Quốc, đã từ chủ nghĩa yêu nước đến với chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Từ đó, Người đã vận dụng và phát triển sáng tạo quan điểm của các nhà sáng lập chủ nghĩa xã hội khoa học vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam để tiến hành cách mạng dân tộc - dân chủ, đánh đổ ách thống trị của thực dân - phong kiến, giành độc lập cho Tổ quốc, xây dựng chế độ dân chủ nhân dân tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Mục đích chính là nhằm thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, làm cho nhân dân ta thoát khỏi nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những thuần phong mỹ tục được phát huy, những phong tục tập quán không tốt dần dần được xóa bỏ. Chỉ ra con đường đúng đắn và mục tiêu cao đẹp của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn là người đề xướng và đặt nền móng cho việc thực hiện các chính sách xã hội nói chung, bao gồm cả hệ thống an sinh xã hội nói riêng trong từng giai đoạn cụ thể của tiến trình cách mạng ở nước ta.

Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công, nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đặt ra cho Chính phủ lâm thời và toàn dân ta phải thực hiện ngay một nhiệm vụ cấp bách là đẩy lùi nạn đói bằng cách phát động một chiến dịch tăng gia sản xuất, đồng thời tổ chức lạc quyên để cứu giúp cho những gia đình thiếu ăn. Cũng vào dịp này, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn chủ trương mở một cuộc vận động lớn trong toàn quốc để xóa nạn mù chữ cho 95% dân số - hậu quả của “chính sách ngu dân” do chế độ thực dân để lại, đồng thời từng bước thực hiện phổ cập giáo dục từ thấp đến cao để không ngừng nâng cao dân trí, đáp ứng yêu cầu xây dựng đất nước về mọi mặt.

Đến cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp trường kỳ, gian khổ, Chủ tịch Hồ Chủ tịch kêu gọi chính quyền nhân dân các tỉnh phải hết sức chăm lo đến việc xóa đói, giảm nghèo, tăng giàu, mở mang văn hóa - giáo dục nhằm: “Làm cho người nghèo thì đủ ăn. Người đủ ăn thì khá giàu. Người khá giàu thì giàu thêm. Người nào cũng biết chữ. Người nào cũng biết đoàn kết, yêu nước”(3).

Kháng chiến chống Pháp thắng lợi, miền Bắc nước ta hoàn toàn được giải phóng đã bước vào thời kỳ quá độ tiến dần lên chủ nghĩa xã hội. Vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của nước nhà, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã không trình bày lý luận về chủ nghĩa xã hội với những đặc trưng và tiêu chí của một mô hình xã hội lý tưởng, được xây dựng sẵn trong đầu óc để từ đó bắt “hiện thực phải khuôn theo”, như chính C. Mác và Ph.Ăng-ghen đã từng cảnh báo(4). Trái lại, Người đã giải thích về chủ nghĩa xã hội một cách rất thiết thực, mộc mạc, dễ hiểu đối với đông đảo đồng bào trong nước: “Chủ nghĩa xã hội là công bằng hợp lý: Làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít, không làm thì không được hưởng. Những người già yếu hoặc tàn tật sẽ được Nhà nước giúp đỡ chăm nom”(5), “chủ nghĩa xã hội trước hết nhằm làm cho nhân dân thoát nạn bần cùng, làm cho mọi người có công ăn việc làm, được ấm no và sống một đời hạnh phúc”(6),...

Chính với những quan niệm nêu trên về chủ nghĩa xã hội và với cương vị là Trưởng ban dự thảo Hiến pháp sửa đổi năm 1959 của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong giai đoạn đầu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ đạo đưa vào văn bản Hiến pháp này những điều khoản quan trọng về các quyền được hưởng an sinh xã hội cơ bản của công dân, như “quyền làm việc”, “quyền nghỉ ngơi”, “quyền học tập”, “quyền được giúp đỡ về vật chất khi già yếu, bệnh tật hoặc mất sức lao động”,...

Việc hiến định và từng bước thực hiện các quyền cơ bản về an sinh xã hội cho mọi người dân trên miền Bắc theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã góp phần cổ vũ toàn quân, toàn dân ta phát huy chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ miền Bắc, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước.

3- Từ khi khởi xướng và lãnh đạo thực hiện công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đến nay, Đảng ta luôn coi trọng vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh trong bối cảnh có nhiều biến chuyển mới của dân tộc và của thời đại nhằm không ngừng đổi mới tư duy lý luận trên cơ sở tổng kết thực tiễn trong nước, đồng thời mở rộng tầm nhìn ra bên ngoài, chú ý tham khảo và tiếp thu có lựa chọn những kinh nghiệm hay của nhiều nước khác trên thế giới. Qua đó, Đảng ngày càng xác định rõ hơn hệ thống các chủ trương, quan điểm định hướng cho việc giải quyết hàng loạt mối quan hệ cơ bản về kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội,... trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Nếu Đại hội VI của Đảng (năm 1986) mới đề cập đến công bằng xã hội và Đại hội VII (năm 1991) đề cập đến tiến bộ xã hội thì Đại hội VIII (năm 1996) đã xác định tăng tưởng kinh tế phải gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước, trong từng chính sách và trong suốt quá trình phát triển. Tại Đại hội VIII, nhiều quan điểm mới về giải quyết các vấn đề xã hội, trong đó có những nội dung về an sinh xã hội được đề cập đến khá nhiều, tuy nhiên thuật ngữ “an sinh xã hội” chưa chính thức xuất hiện trong các văn kiện Đại hội.

Cụm từ “an sinh xã hội” chính thức được sử dụng trong văn kiện Đại hội IX (năm 2001) với khẳng định “Khẩn trương mở rộng hệ thống bảo hiểm xã hội và an sinh xã hội. Sớm xây dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm thất nghiệp”. Thuật ngữ “an sinh xã hội” được hiểu là “quan niệm nhằm tạo ra một mạng lưới an toàn gồm nhiều tầng cho mọi thành viên trong cộng đồng trong trường hợp giảm hoặc mất thu nhập, tăng chi phí đột xuất do những “rủi ro” xã hội và thiên nhiên, trong đó vấn đề bảo hiểm xã hội và cứu trợ xã hội là những chính sách chủ yếu để thực hiện an sinh xã hội ở Việt Nam”. Văn kiện Đại hội IX ghi dấu mốc quan trọng về quan điểm, đường lối của Đảng về an sinh xã hội. Kể từ đó, an sinh xã hội luôn là một nội dung quan trọng được đề cập trong hầu hết các văn kiện quan trọng của Đảng tại các kỳ đại hội tiếp theo. “An sinh xã hội và chính sách xã hội là một trong số những biện pháp nhằm giải quyết các vấn đề xã hội”.

Đại hội X (năm 2006) đã đưa ra định hướng chiến lược cho sự phát triển hệ thống an sinh xã hội ở Việt Nam. Cùng với các chủ trương phát triển hệ thống chính sách hướng vào giải quyết các vấn đề xã hội, Đại hội X khẳng định an sinh xã hội cần được phát triển đa dạng và gắn với các chính sách bảo hiểm.

Đại hội XI (năm 2011) xác định rõ phương hướng, chiến lược phát triển hệ thống an sinh xã hội trong thời kỳ mới. Bên cạnh đó, trong Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020, Đảng ta nhấn mạnh vai trò của an sinh xã hội trong mục tiêu phát triển kinh tế và định hướng phát triển kinh tế - xã hội. Trong phần mục tiêu chủ yếu về phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường, Văn kiện Đại hội nhấn mạnh “phúc lợi xã hội, an sinh xã hội và chăm sóc sức khỏe cộng đồng được đảm bảo”. Trong phần định hướng phát triển kinh tế - xã hội, an sinh xã hội và dịch vụ việc làm được ưu tiên phát triển song song với các dịch vụ khác: “Phát triển mạnh dịch vụ khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo, văn hóa, thông tin, thể thao, dịch vụ việc làm và an sinh xã hội”.

Về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, Đảng ta đã đề ra những chủ trương, quan điểm lớn có ý nghĩa chỉ đạo thực tiễn nổi bật sau đây:

Một là, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm giải phóng sức sản xuất, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống mọi mặt của nhân dân.

Hai là, giải quyết việc làm là yếu tố quyết định để phát huy nhân tố con người, ổn định và phát triển kinh tế, làm lành mạnh xã hội, đáp ứng nguyện vọng và yêu cầu chính đáng của nhân dân. Sớm xây dựng và thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội đối với người lao động bị thất nghiệp.

Ba là, khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp, đồng thời có chính sách hỗ trợ người nghèo vươn lên đủ sống và phấn đấu trở thành khá giả.

Bốn là, coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững.

Năm là, tiến hành đồng bộ chính sách bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân. Đổi mới cơ chế và chính sách viện phí, có chính sách trợ cấp và bảo hiểm y tế cho người nghèo, tiến tới bảo hiểm y tế toàn dân.

Thực hiện quan điểm kết hợp chặt chẽ giữa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách, Báo cáo chính trị tại Đại hội XI (tháng 1-2011) của Đảng nhấn mạnh: “Tiếp tục sửa đổi, hoàn thiện hệ thống bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp, trợ giúp và cứu trợ xã hội đa dạng, linh hoạt, có khả năng bảo vệ, giúp đỡ mọi thành viên trong xã hội, nhất là các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương, vượt qua khó khăn hoặc các rủi ro trong đời sống. Tăng tỷ lệ người lao động tham gia các hình thức bảo hiểm. Đẩy mạnh xã hội hóa dịch vụ bảo hiểm xã hội, chuyển các loại hình trợ giúp, trợ cấp xã hội sang cung cấp dịch vụ bảo trợ xã hội dựa vào cộng đồng. Bảo đảm cho các đối tượng bảo trợ xã hội có cuộc sống ổn định, hòa nhập tốt hơn vào cộng đồng, có cơ hội tiếp cận nguồn lực kinh tế, dịch vụ công thiết yếu... Huy động mọi nguồn lực xã hội cùng với Nhà nước chăm lo tốt hơn nữa đời sống vật chất và tinh thần của những người và gia đình có công”(7).

Với chức năng do Hiến pháp quy định, Quốc hội và Chính phủ nước ta đã lần lượt thể chế hóa những chủ trương, quan điểm nêu trên của Đảng thành hệ thống pháp luật, chiến lược, chính sách, kế hoạch, chương trình, dự án,... cụ thể để đưa vào cuộc sống. Nhờ vậy, cùng với thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, sự nghiệp bảo đảm an sinh xã hội ở nước ta mấy chục năm qua đã đạt được nhiều thành tựu rất đáng khích lệ:

- Số người được giải quyết việc làm gia tăng đều đặn qua từng năm: Trong 10 năm (1991 - 2001) cả nước đã tạo việc làm mới cho khoảng 12 triệu người; những năm tiếp theo, số người được giải quyết việc làm lần lượt tăng thêm: giai đoạn 2001 - 2005 là 6,5 triệu người, giai đoạn 2006 - 2010: khoảng 7,2 triệu người và giai đoạn 2011 - 2015: 7,8 triệu người.

- Công tác xóa đói, giảm nghèo đạt được kết quả nổi bật: Theo chuẩn do Ngân hàng Thế giới phối hợp với Tổng cục Thống kê Việt Nam tính toán, tỷ lệ nghèo chung ở nước ta đã giảm từ 58% năm 1991 xuống còn khoảng 4,5% năm 2015. Những năm gần đây, khi kinh tế nước nhà gặp khó khăn do ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy giảm kinh tế toàn cầu, Chính phủ đã kịp thời đề ra Chương trình hỗ trợ giảm nghèo bền vững tại hơn 60 huyện đặc biệt khó khăn với trên 50% số hộ nghèo. Đến cuối năm 2015, tỷ lệ hộ nghèo ở các huyện này giảm xuống còn 28%.

- Việc thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội có chuyển biến rõ rệt: Từ khi đổi mới đến nay, đối tượng này đã dần dần mở rộng ra nhiều doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế ngoài nhà nước. Vì thế, số người tham gia bảo hiểm xã hội bắt buộc từ 4,8 triệu người năm 2001 tăng lên 12 triệu người năm 2015.

- Diện bao phủ bảo hiểm y tế tăng nhanh: Sau ba lần Chính phủ ban hành các Nghị định Bảo hiểm y tế vào các năm 1992, 1998 và 2005, diện bao phủ bảo hiểm y tế trong cả nước ngày càng mở rộng. Bên cạnh việc mở rộng đối tượng tham gia bảo hiểm y tế bắt buộc, bảo hiểm y tế tự nguyện cũng dần dần lan tỏa đến các đối tượng là nông dân, học sinh, sinh viên... Tính chung, số người tham gia bảo hiểm y tế các loại từ 11,34 triệu người năm 2001 tăng lên 69 triệu người năm 2015, bằng khoảng 75% dân số cả nước(8).

- Việc thực hiện chính sách trợ giúp xã hội từng bước được cải tiến: Những người được hưởng trợ giúp xã hội bao gồm hai đối tượng chủ yếu: những người bị thiệt hại do thiên tai và những người lâm vào cảnh khó khăn do già yếu, tàn tật, mắc bệnh hiểm nghèo... Việc trợ giúp hai đối tượng này được thực hiện qua cả kênh chính thức của Nhà nước và kênh phi chính thức dựa vào sự đóng góp của cộng đồng. Vì thế, kinh phí trợ giúp từ ngân sách nhà nước từ 113 tỷ đồng cho 180.000 người năm 2001, tăng lên 4.500 tỷ đồng cho hơn 1,6 triệu người năm 2010. Ngoài ra, cả nước hiện có 580 cơ sở nuôi dưỡng khoảng 20.000 người già cô đơn, người tàn tật nặng, trẻ em mồ côi,... không nơi nương tựa.

- Việc thực hiện ưu đãi xã hội đối với người có công được đặc biệt quan tâm: Theo kết quả rà soát của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (trong hai năm 2014 - 2015), số người có công được hưởng đúng và đủ chính sách ưu đãi xã hội là 1,98 triệu người.

Cùng với tiến trình đổi mới 30 năm qua, hệ thống chính sách an sinh xã hội đa dạng đã được Đảng, Nhà nước hết sức chăm lo xây dựng và đưa lại hiệu quả ngày càng rõ rệt. Tuy nhiên trong một số năm gần đây, do kinh tế vĩ mô thiếu ổn định, lạm phát gia tăng,... nên tốc độ giảm nghèo có xu hướng chậm lại, số hộ tái nghèo còn nhiều. Cơ chế giảm nghèo đa chiều, đa mục tiêu chưa hình thành. Tỷ lệ thất nghiệp ở thành thị tuy đã giảm, nhưng vẫn còn khoảng 4%. Đặc biệt, trong nông thôn hơn mười năm qua, do hàng ngàn hộ gia đình nông dân thuộc diện có đất thu hồi cho công nghiệp hóa, đô thị hóa,... mà phần lớn lại chưa được hỗ trợ đào tạo nghề mới để kiếm sống, đã dẫn đến tình trạng thiếu việc làm khá nghiêm trọng. Đời sống của một bộ phận dân cư, nhất là ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn.

Việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội khác cũng còn không ít hạn chế. Một số chính sách chậm được đổi mới, chưa sát thực tế, thiếu cơ chế điều tiết hợp lý quan hệ lợi ích và kiểm soát các rủi ro. Một bộ phận nhân dân chưa được hưởng một cách công bằng các thành quả của công cuộc đổi mới.

4- Để phát huy hơn nữa những thành tựu đã đạt được, đồng thời khắc phục những hạn chế, yếu kém còn lại, Báo cáo chính trị do Ban Chấp hành Trung ương khóa XI trình bày tại Đại hội XII (tháng 1-2016) đã đề ra những chủ trương, chính sách bao quát sau đây:

“Phát triển bền vững văn hóa, xã hội; gắn kết chặt chẽ, hài hòa giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hóa và thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, nâng cao đời sống nhân dân. Thực hiện Chương trình nghị sự 2030 của Liên hợp quốc, lồng ghép hiệu quả các mục tiêu phát triển bền vững vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của cả nước, từng ngành, từng địa phương.

Tiếp tục hoàn thiện chính sách, nâng cao mức sống người có công. Rà soát, hoàn thiện pháp luật, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về an sinh xã hội. Đẩy mạnh giảm nghèo bền vững, nhất là các vùng đặc biệt khó khăn và có chính sách đặc thù để giảm nghèo nhanh hơn trong đồng bào dân tộc thiểu số. Chú trọng các giải pháp tạo điều kiện và khuyến khích hộ nghèo, cận nghèo phấn đấu tự vươn lên thoát nghèo bền vững. Khuyến khích nâng cao khả năng tự bảo đảm an sinh xã hội của người dân. Thực hiện tốt chính sách việc làm công, chính sách bảo hiểm thất nghiệp, hỗ trợ có thời hạn cho người lao động mất việc khu vực công. Hỗ trợ phát triển sản xuất, tạo việc làm, học nghề và đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài,... bảo đảm phát triển bền vững quỹ bảo hiểm xã hội. Tiếp tục hoàn thiện chính sách, khuyến khích tham gia của cộng đồng, nâng cao hiệu quả công tác trợ giúp xã hội. Thực hiện chuẩn nghèo theo phương pháp tiếp cận đa chiều, bảo đảm mức tối thiểu về thu nhập và các dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân như giáo dục, y tế, nhà ở, nước sạch, thông tin”(9). Báo cáo chính trị tại Đại hội XII của Đảng đã đưa ra những định hướng lớn: Hoàn thiện hệ thống chính sách, kết hợp chặt chẽ các mục tiêu của chính sách kinh tế với các mục tiêu của chính sách xã hội; nâng cao thu nhập và chất lượng sống của nhân dân; phát triển hệ thống an sinh xã hội đa dạng, ngày càng mở rộng và hiệu quả.

Để định hướng tổng quát nêu trên hiện thực hóa sinh động trong cuộc sống, những năm sắp tới, cụ thể là từ nay đến năm 2020, cần quán triệt và vận dụng tốt hơn một số quan điểm chủ yếu sau:

Một là, kết hợp hài hòa giữa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội với bảo đảm an sinh xã hội ngay trong từng bước và từng chính sách. Theo quan điểm đó, mỗi chính sách thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội phải tạo thêm nguồn lực vật chất và nguồn lực con người để không ngừng mở rộng và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội. Ngược lại, mỗi bước mở rộng và hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội phải góp phần phòng ngừa, giảm thiểu, khắc phục rủi ro có hiệu quả hơn cho những đối tượng gặp khó khăn, qua đó mà làm yên lòng dân, tăng cường cố kết cộng đồng - yếu tố quan trọng để phát triển xã hội theo hướng nhân văn, vừa bảo đảm tiến bộ và công bằng, vừa thúc đẩy kinh tế tăng trưởng nhanh và bền vững vì ấm no, tự do, hạnh phúc của mọi người dân.

Hai là, trong điều kiện tiếp tục hoàn thiện nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, việc kết hợp giữa phát triển kinh tế - xã hội với bảo đảm an sinh xã hội phải triệt để khắc phục những tàn dư của chế độ phân phối theo kiểu bao cấp, bình quân, cào bằng. Cũng không thể dồn phần lớn của cải làm ra để thực hiện an sinh xã hội vượt quá khả năng mà các nguồn lực vật chất và nguồn lực con người của đất nước có thể cho phép. Do đó, trong mỗi bước đi, mỗi thời điểm cụ thể của quá trình xây dựng đất nước, phải tìm ra đúng sự tương thích giữa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với bảo đảm an sinh xã hội, sao cho những mặt này không cản trở mặt kia, mà hỗ trợ nhau cùng phát triển.

Ba là, tăng cường các chương trình phát triển kinh tế, phát triển xã hội gắn với mở rộng việc làm để người lao động có và duy trì ổn định thu nhập tối thiểu, bảo đảm quyền an sinh. Do đó, cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống luật pháp về lao động, việc làm; tạo điều kiện và môi trường an toàn cho người lao động; tăng cường kiểm tra, giám sát và có chế tài đủ mạnh để bảo đảm việc thực hiện đầy đủ chế độ bảo hiểm xã hội tại tất cả các loại hình doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) và doanh nghiệp tư nhân.

Bốn là, nâng cao hiệu quả chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói, giảm nghèo bền vững. Cùng với ưu tiên bố trí kinh phí từ ngân sách nhà nước, tiếp tục huy động sự trợ giúp của cộng đồng doanh nghiệp và của toàn xã hội, hoàn thành tốt Định hướng giảm nghèo đa chiều bền vững giai đoạn 2016 - 2020 ở những huyện còn có tỷ lệ hộ nghèo cao. Tiếp tục thực hiện các dự án hỗ trợ nhà ở cho người nghèo và công nhân các khu công nghiệp tập trung, dự án nhà ở cho đồng bào vùng bão lũ, sạt lở núi, ven sông, ven biển; dự án bảo đảm nước sạch nông thôn và đô thị; bảo đảm quyền tiếp cận dịch vụ giáo dục và y tế và thông tin cơ bản cho người dân. Cải tiến và đẩy nhanh thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới. Phát triển mạnh tiểu, thủ công nghiệp, dịch vụ và làng nghề gắn với bảo vệ môi trường, bảo đảm an sinh xã hội, phát triển nông thôn bền vững. Tóm lại, phải bảo đảm dịch vụ xã hội cơ bản cho người dân, đặc biệt chú ý đối tượng người nghèo, cận nghèo.

Thứ năm, nhìn một cách bao quát nhất, việc bảo đảm an sinh xã hội gắn với công bằng xã hội đòi hỏi phải có một nền kinh tế tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và bền vững, cũng như có một nền văn hóa thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ.

Bởi lẽ chỉ có một nền kinh tế và một nền văn hóa như thế thì đất nước mới có khả năng huy động được đủ các nguồn lực vật chất và tinh thần cho việc thực hiện các chính sách an sinh xã hội và phúc lợi xã hội cho mọi đối tượng cần thiết. Không thể có an sinh xã hội đầy đủ trên cơ sở một nền kinh tế thiếu hụt, cũng không thể có một nền kinh tế tăng trưởng nhanh, hiệu quả cao và bền vững trong một xã hội với đa số dân chúng thấp kém về trí tuệ, ốm yếu về thể chất, suy thoái về đạo đức và một bộ phận đáng kể lao động lâm vào cảnh thất nghiệp, nghèo đói bị đẩy ra ngoài lề xã hội. Đúng như C. Mác đã chỉ rõ: “Quyền [của người dân có được an sinh xã hội gắn với công bằng xã hội] không bao giờ có thể ở một mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn hóa của xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định”(10)./.

------------------------------------------

(1) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 19, tr. 31 - 32

(2) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 22, tr. 350
(3) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, t. 5, tr. 65
(4) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 3, tr. 51
(5) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t. 9, tr. 175
(6) Hồ Chí Minh: Toàn tập, Sđd, t.10, tr. 17
(7) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011, tr. 228 - 229
(8) Theo số liệu của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội
(9) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương Đảng, Hà Nội, 2016, tr. 299 - 301
(10) C. Mác và Ph. Ăng-ghen: Toàn tập, Sđd, t. 19, tr. 36