Cần đặt công tác quản lý cán bộ đúng tầm
Công tác cán bộ của Đảng bao giờ cũng có tầm quan trọng bậc nhất sau khi Đảng xác định được đường lối chính trị đúng đắn. Ở tầm vĩ mô, công tác cán bộ của Đảng có hai mảng lớn là xác định đường lối công tác cán bộ và quản lý cán bộ. Việc định ra đường lối, chính sách, quan điểm, tiêu chuẩn chung về cán bộ và công tác cán bộ thuộc thẩm quyền của Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc và Ban chấp hành Trung ương. Các khâu còn lại của công tác cán bộ thuộc phạm trù quản lý cán bộ và được phân cấp cho cấp ủy đảng các cấp từ Bộ Chính trị, Ban Bí thư đến cấp ủy cơ sở.
Trước yêu cầu của mỗi giai đoạn cách mạng và thực trạng đội ngũ cán bộ, trong nhiều năm qua, Đảng ta đã đặc biệt coi trọng công tác cán bộ, đã có nhiều nghị quyết, chỉ thị và những biện pháp thiết thực về xây dựng đội ngũ cán bộ và đổi mới công tác cán bộ, trong đó có nội dung quản lý cán bộ. Nội dung quản lý cán bộ được Trung ương xác định, gần đây, theo Quy định số 23 – QĐ/TW ngày 31-10-2006 và Quyết định số 67 – QĐ/TW ngày 04-7-2007 của Bộ Chính trị ban hành Quy định về phân cấp quản lý cán bộ (thay thế Quyết định số 49 - QĐ/TW ngày 03-5-1999 của Bộ Chính trị khóa VIII) đã xác định công tác quản lý cán bộ gồm 7 nội dung chính (đó là những nội dung lớn của công tác cán bộ).
Theo chúng tôi, quản lý cán bộ chính là khâu tiền đề và có vị trí trọng yếu trong công tác cán bộ. Bởi, có quản lý tốt từng người cán bộ và cả đội ngũ cán bộ thì chủ thể quản lý mới có cơ sở để tiến hành các khâu tiếp theo của công tác cán bộ một cách chính xác; có luận chứng, luận cứ trực tiếp để đánh giá đúng, bố trí, sử dụng phù hợp và phát huy tốt khả năng của cán bộ trong thực tiễn. Vì vậy, có thể hiểu quản lý cán bộ là hoạt động thường xuyên, chủ động, có mục đích, có định hướng của chủ thể quản lý (tổ chức, cá nhân có thẩm quyền được phân công, phân cấp quản lý cán bộ) nhằm tìm hiểu, đánh giá đúng thực trạng đội ngũ cán bộ và từng cán bộ một cách khoa học, đồng bộ và hệ thống, làm cơ sở cho việc đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, luân chuyển, bố trí, sử dụng cán bộ đúng chỗ, phù hợp, phát huy khả năng của cả đội ngũ và từng người cán bộ, góp phần xây dựng tổ chức ngày càng vững mạnh, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Với quan niệm nêu trên, cần có chung nhận thức: thứ nhất, quản lý cán bộ là một quá trình, bao gổm tổng thể các chủ trương, biện pháp, cách thức của cấp ủy đảng các cấp, người đứng đầu tổ chức, của các cơ quan chức năng cùng hướng tới mục đích: Xây dựng đội ngũ cán bộ vững mạnh bảo đảm hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng; quản lý cán bộ để nắm chắc toàn bộ đội ngũ cán bộ, từng loại cán bộ và từng nguồn cán bộ một cách khoa học, đồng bộ, hệ thống; thứ hai, quản lý cán bộ đòi hỏi phải kết hợp chặt chẽ giữa công tác tư tưởng với công tác tổ chức, trên cơ sở quán triệt sâu sắc lý luận chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm, nguyên tắc công tác cán bộ của Đảng, nắm vững đặc điểm, yêu cầu nhiệm vụ chính trị của từng cơ quan, đơn vị, tạo ra sự chuyển biến mạnh mẽ và sâu sắc về nhận thức, đề cao được trách nhiệm của các cấp, các ngành, phát huy được tính chủ động sáng tạo của từng địa phương, cơ sở; bảo đảm sự kết hợp chặt chẽ, nhịp nhàng giữa các tổ chức, giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa cấp ủy đảng, người đứng đầu tổ chức và cơ quan chức năng trong quản lý cán bộ; thứ ba, phải thường xuyên làm tốt các khâu, các bước trong quy trình công tác cán bộ, từ việc phân tích tình hình nhiệm vụ chính trị ở từng cơ quan, đơn vị, đánh giá thực trạng công tác quản lý cán bộ, xác định chủ trương, phương hướng đến xác định mục tiêu, quy trình, biện pháp quản lý cán bộ. Trên cơ sở quy hoạch, kế hoạch cán bộ cần làm tốt việc tuyển chọn, tạo nguồn, bồi dưỡng, đào tạo, sử dụng và tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ phấn đấu vươn lên, hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao; thứ tư, quản lý cán bộ phải hướng vào việc không ngừng nâng cao phẩm chất, năng lực của mỗi cán bộ; nâng cao hiệu quả quản lý đội ngũ cán bộ, góp phần bảo đảm cho tổ chức đảng, chính quyền và các tổ chức đoàn thể trong hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh về mọi mặt, đủ sức hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ cả trước mắt và lâu dài. Đây là giá trị đích thực, là mục tiêu cần đạt tới của mọi hoạt động trong quản lý cán bộ.
Đổi mới và chỉnh đốn Đảng vừa là nhiệm vụ cấp bách, vừa là nhiệm vụ cơ bản, lâu dài, là quy luật tồn tại và phát triển của Đảng. Để có đủ khả năng và điều kiện lãnh đạo cách mạng, Đảng phải xây dựng được một đội ngũ cán bộ trong sạch, vững mạnh, bảo đảm hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ chính trị của Đảng. Gắn chặt với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị là phương châm chỉ đạo toàn bộ các khâu công việc, các hoạt động cụ thể của công tác cán bộ và quản lý cán bộ. Chất lượng công tác cán bộ nói chung, quản lý cán bộ nói riêng cao hay thấp được đánh giá chủ yếu ở tác động của nó đối với việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của Đảng. Cấp ủy các cấp, người đứng đầu tổ chức và cơ quan quản lý cán bộ phải lấy yêu cầu đó làm căn cứ xem xét, đánh giá và định ra mục tiêu, phương hướng quản lý cán bộ thuộc quyền.
Việc xây dựng đội ngũ cán bộ được bắt đầu từ việc tuyển chọn và đào tạo, bồi dưỡng từng người cán bộ. Do vậy, việc hiểu rõ từng cán bộ có quan hệ chặt chẽ với việc quản lý cả đội ngũ cán bộ. Hiểu đúng phẩm chất và năng lực của từng cán bộ sẽ sử dụng cán bộ đúng chỗ, có chính sách thỏa đáng, tạo điều kiện cho họ tiến bộ không ngừng. Thấy rõ mặt mạnh, mặt yếu của cả đội ngũ để có hướng xây dựng, bồi dưỡng và đào tạo đồng bộ, đáp ứng yêu cầu trước mắt và lâu dài của nhiệm vụ cách mạng.
Để thực hiện tốt nhiệm vụ đó, cấp ủy đảng các cấp và người đứng đầu tổ chức không những phải nắm vững đường lối, quan điểm của Đảng về công tác cán bộ; nâng cao chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ; đồng thời, phải chú trọng chất lượng và hiệu quả công tác quản lý cán bộ. Bởi, có quản lý cán bộ được tốt mới hiểu được mặt mạnh, mặt yếu, dự tính được triển vọng của từng cán bộ và cả đội ngũ cán bộ; quản lý cán bộ tốt sẽ tác động mạnh mẽ và tạo điều kiện làm tốt các việc đào tạo, bồi dưỡng, bố trí, sử dụng cán bộ; có quy hoạch, kế hoạch công tác cán bộ đúng đắn, toàn diện.
Trong những năm qua, công tác cán bộ nói chung, quản lý cán bộ nói riêng đã có những đổi mới về nội dung và cách thực hiện. Trên cơ sở giữ vững quan điểm Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ, đồng thời phát huy trách nhiệm của các tổ chức và người đứng đầu các tổ chức trong hệ thống chính trị; bước đầu tổ chức để nhân dân tham gia ý kiến vào công tác cán bộ, nhất là ở cơ sở đã đem lại hiệu quả thiết thực góp phần tích cực xây dựng đội ngũ cán bộ đáp ứng tình hình, nhiệm vụ chính trị trong giai đoạn mới và khắc phục một bước tình trạng hẫng hụt về cán bộ.
Thành tựu của công cuộc đổi mới là minh chứng sống động, khẳng định rằng, Đảng ta đã xây dựng được một đội ngũ cán bộ vững vàng về chính trị; năng động, sáng tạo, có ý thức tự chủ, tự lực tự cường; có kiến thức, trình độ và năng lực hoạt động thực tiễn, thích nghi nhanh với cơ chế mới và trưởng thành trong quản lý kinh tế, quản lý xã hội.
Cùng với việc nêu lên những kết quả đạt được của công tác cán bộ và quản lý cán bộ, Đảng ta cũng thẳng thắn chỉ rõ những khuyết điểm, hạn chế về công tác quản lý cán bộ đã tồn tại trong nhiều năm qua: “Công tác quản lý cán bộ không chặt chẽ; các cấp ủy đảng ít hiểu cán bộ và chưa chăm lo đào tạo và bồi dưỡng cán bộ”[1], “Công tác quản lý cán bộ chưa tốt, chưa đảm bảo nguyên tắc Đảng thống nhất lãnh đạo và quản lý cán bộ. Nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách bị vi phạm ”[2]; “Công tác kiểm tra, quản lý cán bộ, bảo vệ chính trị nội bộ ở nhiều nơi bị buông lỏng. phần lớn khi có đơn thư tố giác mới thanh tra, kiểm tra. Không kiên quyết xử lý những cán bộ sai phạm. Còn thiếu các quy chế về quản lý cán bộ...”[3]; “Đánh giá và quản lý cán bộ là khâu yếu nhất nhưng chậm được khắc phục... Công tác quản lý cán bộ chưa tốt, chế độ trách nhiệm và quyền hạn người đứng đầu mỗi cơ quan, đơn vị trong công tác cán bộ chưa được quy định rõ hoặc chưa hợp lý”[4]; “Chưa xây dựng được quy chế về quyền và trách nhiệm cụ thể của người đứng đầu các cấp trong công tác cán bộ. Cấp có thẩm quyền và chi bộ chưa làm tốt việc quản lý và giám sát cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ lãnh đạo; chưa khắc phục được biểu hiện tiêu cực trong công tác cán bộ”[5]; “Nhiều khuyết điểm, yếu kém trong công tác cán bộ chậm được khắc phục, nhất là việc quản lý, giáo dục, rèn luyện cán bộ về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, thực hành dân chủ và chế độ trách nhiệm trong công tác”[6].
Sự tác động mạnh mẽ của việc hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực, kinh tế thị trường, cùng với sự phát triển mọi mặt của đời sống kinh tế - xã hội đang đặt ra cho công tác quản lý cán bộ những vấn đề mới, phức tạp, nổi lên là nội dung quản lý về tư tưởng chính trị, các mối quan hệ xã hội của cán bộ, cần phải được nghiên cứu, giải đáp. Thêm vào đó là thực trạng: “Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả cán bộ chủ chốt các cấp, yếu kém cả về phẩm chất và năng lực; thiếu tính chiến đấu và tinh thần bảo vệ quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, giảm sút lòng tin, phai nhạt lý tưởng... Bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá nhân trong một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng gia tăng; vẫn còn tình trạng “chạy chức”, “chạy quyền”, “chạy tội”, “chạy bằng cấp”. Thoái hóa, biến chất về chính trị, tư tưởng, về đạo đức, lối sống; tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, sách nhiễu nhân dân trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn ra nghiêm trọng, kéo dài chưa được ngăn chặn, đẩy lùi… Đó là một nguy cơ lớn liên quan đến sự sống còn của Đảng, của chế độ”[7].
Biểu hiện rõ nét nhất của những khuyết điểm đó là còn một số cấp ủy, người đứng đầu tổ chức chưa làm tốt việc tìm hiểu, xử lý và quản lý thông tin về cán bộ thuộc quyền (nắm không đầy đủ, không kịp thời, không liên tục, không có hệ thống); vẫn còn tư tưởng phân biệt “đẳng cấp” trong phân cấp quản lý cán bộ không đúng quan điểm của Đảng. Có một số nguyên nhân dẫn đến những hạn chế, khuyết điểm nêu trên: Chủ thể quản lý cán bộ chưa nhận thức đầy đủ những diễn biến nhanh chóng, phức tạp của tình hình, những mặt trái của kinh tế thị trường, của quá trình hội nhập quốc tế và đặc điểm hoạt động, công tác, sinh hoạt của cán bộ trong quá trình chuyển đổi cơ chế quản lý kinh tế - xã hội đã tác động nhiều mặt đến đội ngũ cán bộ, nhất là trên lĩnh vực tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; một số cấp uỷ, tổ chức đảng, bí thư cấp uỷ chưa quan tâm đúng mức về thời gian, công sức cho công tác xây dựng Đảng; chưa nhận thức đầy đủ, chưa thực sự chú trọng đến công tác quản lý, kiểm tra, giám sát cán bộ, hoặc còn đồng nhất nội hàm công tác cán bộ với quản lý cán bộ, hoặc giao phó công tác này cho cơ quan chuyên môn; chưa cụ thể hóa nội dung quy định về phân cấp quản lý cán bộ phù hợp với đặc điểm, nhiệm vụ chính trị và thực trạng đội ngũ cán bộ của cơ quan, đơn vị mình; còn thiếu sự kết hợp chặt chẽ giữa cán bộ nghiệp vụ với cơ quan, đơn vị trực tiếp quản lý cán bộ về quản lý hồ sơ, quá trình trưởng thành, chức trách nhiệm vụ, mức độ hoàn thành nhiệm vụ và các mối quan hệ xã hội cơ bản của cán bộ thuộc quyền. Mặt khác, do “chưa có cơ chế giám sát trong Đảng và giám sát của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị – xã hội và của nhân dân đối với tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên”[8].
Là một Đảng cầm quyền, chịu trách nhiệm trước vận mệnh dân tộc, đất nước, để có đủ khả năng và điều kiện lãnh đạo cách mạng, Đảng phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu về mọi mặt. Chỉ có chăm lo đầy đủ công tác xây dựng Đảng, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn và xây dựng một đội ngũ cán bộ trong sạch, vững mạnh, Đảng mới nâng cao được năng lực sức chiến đấu và lãnh đạo thành công sự nghiệp đổi mới. Do đó, nội dung quản lý, kiểm tra, giám sát cán bộ trong công tác cán bộ càng phải được chú trọng và phải được xác định là nội dung trọng tâm, là “khâu then chốt” của nhiệm vụ then chốt. Phải thực hiện đồng bộ giữa công tác quản lý, kiểm tra và giám sát cán bộ, cần quản lý chặt chẽ, giám sát mở rộng, kiểm tra có trọng tâm trọng điểm nhằm “chủ động phòng ngừa vi phạm, kịp thời phát hiện những nhân tố mới để phát huy, khắc phục thiếu sót, khuyết điểm, vi phạm ngay từ lúc mới manh nha” [9] và “Làm tốt công tác bảo vệ cán bộ”.[10]
Trong giai đoạn hiện nay, để thực hiện được mục tiêu: “Xây dựng đội ngũ cán bộ có bản lĩnh chính trị vững vàng, có đạo đức, lối sống lành mạnh, không quan liêu, tham nhũng, lãng phí, kiên quyết đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí; có tư duy đổi mới, sáng tạo, có kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa”,[11] cần tiếp tục đổi mới công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ theo hướng: “Các cấp uỷ tiếp tục xây dựng các quy định, quy chế để cụ thể hoá nguyên tắc tập trung dân chủ, Đảng thống nhất lãnh đạo công tác cán bộ và quản lý đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị, có phân công, phân cấp hợp lý, xác định rõ và tôn trọng vai trò, trách nhiệm của tổ chức, người đứng đầu tổ chức trong công tác cán bộ. Bộ Chính trị, Ban Bí thư thường xuyên đôn đốc, kiểm tra tình hình thực hiện chiến lược cán bộ, xem đây là một trong những nội dung trọng tâm lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng hiện nay; ...trên cơ sở tiêu chuẩn cán bộ chung, xây dựng tiêu chuẩn cụ thể cho từng chức danh cán bộ”[12]. Đây là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, nhưng trực tiếp là của cấp ủy đảng các cấp và người đứng đầu tổ chức sử dụng cán bộ. Theo chúng tôi, để thực hiện thắng lợi mục tiêu, phương hướng về công tác cán bộ và quản lý cán bộ đã được Đại hội Đảng X xác định, điều quan trọng nhất là chủ thể quản lý phải nhận thức rõ sự khác nhau về cấp độ quản lý giữa cấp chỉ đạo chiến lược với cấp trực tiếp quản lý con người cán bộ, theo hướng quản lý về phẩm chất chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống; về năng lực, hiệu quả công tác; về các quan hệ xã hội cơ bản; về quá trình phát triển của cán bộ, bảo đảm “Có chế độ quản lý chặt chẽ đội ngũ cán bộ. Các cấp ủy, thủ trưởng các cơ quan phải nắm chắc từng cán bộ, cả về đức, tài và tình trạng sức khỏe”.[13] Để thực hiện được điều đó, trước hết, cấp ủy, cấp ủy viên các cấp, người đứng đầu cơ quan, đơn vị quản lý và sử dụng cán bộ phải thực sự là tấm gương trong việc quán triệt đầy đủ, sâu sắc, chấp hành nghiêm nghị quyết của Đảng; đồng thời, phải cụ thể hóa phương hướng, mục tiêu đó thành quy chế với những nội dung cụ thể phù hợp điều kiện, đặc điểm của cơ quan, đơn vị mình, đề ra được những biện pháp cụ thể, khả thi và thường xuyên kiểm tra, kịp thời uốn nắn những sai sót trong quá trình tổ chức thực hiện.
Từ nhận thức trên, theo chúng tôi, quản lý cán bộ là nhiệm vụ trực tiếp của các cấp uỷ đảng, của người đứng đầu các cơ quan, đơn vị; là việc làm hàng ngày, gắn với việc thực hiện các chủ trương, kế hoạch công tác; đó chính là quá trình nhận thức của chủ thể quản lý thông qua việc thu thập, quản lý và xử lý thông tin được phản ánh để thấy rõ “chất” của cán bộ được quản lý. Để hiểu và biết rõ cán bộ, Hồ Chí Minh đã dạy: “Trong thế giới cái gì cũng biến hóa. Tư tưởng của người cũng biến hóa. Vì vậy cách xem xét cán bộ, quyết không nên chấp nhất, vì nó cũng phải biến hóa”[14], “Chẳng những xem xét công tác của họ, mà còn phải xét cách sinh hoạt của họ... không nên chỉ xem xét công việc của họ trong một lúc, mà phải xem cả công việc của họ từ trước đến nay”[15].
Do vậy, quản lý cán bộ không phải và không thể làm một lần là xong, đó phải là yếu tố thường xuyên trong quy trình công tác cán bộ được thực hiện ở các cấp, từ Trung ương đến cơ sở. Quản lý tốt sẽ nâng cao tính chủ động trong quản lý, phát hiện, cảnh báo của chủ thể quản lý nhằm giúp cán bộ kịp thời khắc phục khuyết điểm không để xảy ra vi phạm; đồng thời, quản lý tốt cũng tạo ra môi trường tốt để từng cán bộ nâng cao ý thức tự tu dưỡng, rèn luyện, chấp hành kỷ luật. Do đó, quản lý cán bộ cần kết hợp giữa phát huy tính tích cực tự giác của bản thân cán bộ với tính chủ động, tích cực của cấp ủy, người đứng đầu tổ chức và cơ quan chức năng trong việc thu thập, xử lý những thông tin cần thiết về chất lượng đội ngũ cán bộ theo thẩm quyền; thực sự coi trọng vai trò của chi bộ, tổ chức cơ sở đảng trong xây dựng quy chế quản lý cán bộ và xây dựng chi bộ trở thành môi trường văn hóa lành mạnh, tạo không khí dân chủ, đoàn kết, phấn khởi là nhân tố thúc đẩy các mặt công tác phát triển. Vì vậy, nội dung quản lý cán bộ trong công tác cán bộ cần được nghiên cứu, phân tích sâu sắc để có được những giải pháp tích cực và đồng bộ từ chủ trương, chính sách mang tính vĩ mô đến những biện pháp cụ thể, sáng tạo ở từng chi bộ, đơn vị cơ sở.
[1] Đảng Lao động Việt Nam, Nghị quyết số 225 - NQ/TW của Bộ Chính trị (khóa III) “Về công tác cán bộ trong giai đoạn mới”, bản sao, tr. 3.
[2] Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghiên cứu Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa VII) “Về xây dựng Đảng”, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1992, tr. 88.
[3] Đảng Cộng sản Việt nam, Các nghị quyết của Trung ương Đảng (1996 - 1999), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 68.
[4] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa IX , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002, tr. 167 - 168.
[5] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghị lần thứ chín Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa IX) , Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004, tr 65.
[6] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 271.
[7] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr. 263 - 264.
[8] Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 14 - NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X “Về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng”, (bản sao), tr. 2, 3, 4.
[9] Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 14 - NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X “Về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của Đảng”, (bản sao), tr. 2, 3, 4.
[10] Đảng Cộng sản Việt Nam, Kết luận số 15 – KL/TW của Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương (khoá IX), (bản sao), tr. 4.
[11] Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006, tr 292 - 293.
[12] Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết số 15 - NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa X “Về tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt động của hệ thống chính trị”, (bản sao), tr. 10, 11.
[13] Đảng Cộng sản Việt Nam, Các nghị quyết của Trung ương Đảng (1996 - 1999), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000, tr. 88.
[14] Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1995, tập 5, tr. 278.
[15] Hồ Chí Minh, Sđd, tập 5, tr 281 – 282.
Thành tựu thu hút FDI là điểm sáng của kinh tế Việt Nam  (19/12/2007)
Thành phố Hồ Chí Minh đầu tư 3,5 tỉ USD cho công nghiệp trọng điểm  (19/12/2007)
Phát huy truyền thống “Bộ đội Cụ Hồ”, Hội Cựu chiến binh Việt Nam hoàn thành vẻ vang mọi nhiệm vụ  (19/12/2007)
Xây dựng sự đồng thuận xã hội ở nước ta hiện nay  (19/12/2007)
- Tự quản trong cộng đồng xã hội đối với quá trình xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam (kỳ 1)
- Thực hiện chính sách xã hội, bảo đảm an sinh và phúc lợi xã hội trong tình hình mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về chỉnh huấn cán bộ, đảng viên và một số giải pháp trong công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay
- Tổ hợp công nghiệp quốc phòng và gợi mở hướng nghiên cứu về mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng công nghệ cao ở Việt Nam
- Tỉnh Quảng Trị tập trung lãnh đạo, chỉ đạo một số nhiệm vụ trọng tâm tổ chức đại hội đảng bộ các cấp tiến tới Đại hội XIV của Đảng
-
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Tác động của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đến thế giới, khu vực và Việt Nam -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Cách mạng Tháng Mười Nga năm 1917 và dấu ấn chính sách dân tộc của V.I. Lê-nin: Nhìn lại và suy ngẫm -
Nghiên cứu - Trao đổi
Quan điểm của C. Mác về lực lượng sản xuất và vấn đề bổ sung, phát triển quan điểm này trong giai đoạn hiện nay -
Thế giới: Vấn đề sự kiện
Một số lý giải về cuộc xung đột Nga - Ukraine hiện nay và tính toán chiến lược của các bên