Chuyển đổi mô hình phúc lợi xã hội theo hướng đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội ở Việt Nam
TCCS - Trong bối cảnh đất nước bước vào giai đoạn phát triển mới, yêu cầu xây dựng hệ thống phúc lợi xã hội hiện đại, bao trùm trở nên cấp thiết. Nghị quyết số 42-NQ/TW, ngày 24-11-2023, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, “Về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới” đã xác lập định hướng chiến lược cho việc chuyển đổi mô hình phúc lợi xã hội ở Việt Nam. Đây là bước chuyển về tư duy phát triển, đặt con người làm trung tâm, bảo đảm quyền thụ hưởng phúc lợi của mọi người dân trong suốt hành trình cuộc sống.
Quan điểm mới về phúc lợi xã hội
Phúc lợi xã hội toàn dân là khái niệm lần đầu tiên được đề cập trong Nghị quyết số 42-NQ/TW, ngày 24-11-2023, của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa XIII, “Về tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng chính sách xã hội, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới" (sau đây gọi là Nghị quyết số 42).
Về đối tượng thụ hưởng, phúc lợi xã hội toàn dân nhấn mạnh đối tượng thụ hưởng bao gồm toàn bộ người dân chứ không chỉ tập trung vào nhóm yếu thế (ở đây được hiểu là không phân biệt nhóm đối tượng), không phân biệt độ tuổi, giới tính, giàu nghèo, vùng miền... Xét về mặt chính trị, thực hiện phúc lợi xã hội toàn dân sẽ tạo đồng thuận xã hội cao hơn, tránh nguy cơ phân hóa hoặc chênh lệch giữa các nhóm đối tượng. Xét về tính công bằng, phúc lợi xã hội toàn dân bảo đảm công bằng theo chiều ngang, độ bao phủ rộng. Như vậy, phúc lợi xã hội toàn dân là hệ thống các chính sách, chương trình nhằm bảo đảm các nhu cầu cơ bản hỗ trợ phát triển con người và thực hiện công bằng xã hội cho mọi người dân, không phân biệt nhóm đối tượng.
Việc thực hiện phúc lợi xã hội toàn dân thể hiện sự thay đổi tư duy, cách tiếp cận ở những nội dung sau:
Thứ nhất, chuyển từ tư duy “bao cấp chọn lọc” sang tư duy “bao phủ toàn dân”. Nếu như trước đây, nhóm đối tượng thụ hưởng phúc lợi xã hội được xác định chủ yếu gồm người yếu thế, người gặp hoàn cảnh khó khăn, người có công... thì theo Nghị quyết số 42, phúc lợi xã hội được mở rộng toàn dân. Việc xác lập mục tiêu phúc lợi xã hội toàn dân không chỉ là một sự điều chỉnh kỹ thuật trong hoạch định chính sách, mà trước hết là bước chuyển mang tính đột phá về tư duy quản lý và phát triển xã hội từ bị động sang chủ động. Trước đây, phúc lợi xã hội chủ yếu được thiết kế theo hướng “bao cấp chọn lọc”, tức chỉ tập trung hỗ trợ những nhóm đối tượng được xác định là yếu thế, khó khăn, thì nay, tư duy “bao phủ toàn dân” khẳng định quyền thụ hưởng phúc lợi cơ bản của mọi công dân như một quyền con người và đây là nghĩa vụ của Nhà nước. Sự chuyển đổi này phản ánh nhận thức mới về vai trò của phúc lợi xã hội từ một công cụ trợ giúp mang tính cứu trợ sang một thiết chế bảo đảm công bằng xã hội mang tính phổ quát, lâu dài, hướng tới nâng cao chất lượng cuộc sống cho người dân. Phúc lợi xã hội không chỉ là biện pháp giảm thiểu rủi ro mà trở thành nền tảng phát triển con người. Đây là sự vận dụng sáng tạo các giá trị tiến bộ của nhân loại, phù hợp với mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, đồng thời là minh chứng cho năng lực đổi mới tư duy của Đảng ta trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế sâu rộng.
Thứ hai, chuyển từ phúc lợi mang tính cứu trợ sang phúc lợi gắn với thực hiện quyền con người. Việt Nam thực hiện phúc lợi xã hội toàn dân, đồng nghĩa với việc coi đây là quyền hiến định mà mọi công dân được hưởng, không phụ thuộc vào thu nhập hay hoàn cảnh cá nhân. Tư duy này gần với mô hình phúc lợi phổ quát ở các nước Bắc Âu và một số nước phát triển. Thể hiện cam kết mạnh mẽ của Nhà nước nhằm bảo đảm các nhu cầu cơ bản, tạo nền tảng, cơ hội để mọi người đều có cơ hội phát triển, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần. Sự chuyển đổi từ phúc lợi xã hội mang tính cứu trợ sang phúc lợi xã hội gắn với thực hiện quyền con người phản ánh bước tiến quan trọng trong tư duy và cách tiếp cận chính sách xã hội của Đảng và Nhà nước. Trong mô hình phúc lợi cứu trợ, trọng tâm là can thiệp tình thế nhằm khắc phục khó khăn cho những cá nhân hoặc nhóm yếu thế, dựa trên tiêu chí thu nhập hoặc hoàn cảnh đặc thù. Cách tiếp cận này tuy cần thiết trong giai đoạn khẩn cấp, nhưng thường mang tính ngắn hạn, bị giới hạn về phạm vi bao phủ, dễ tạo ra tâm lý lệ thuộc và chưa bảo đảm tính bền vững. Ngược lại, phúc lợi xã hội gắn với quyền con người đặt nền tảng dựa trên nguyên tắc như các nhu cầu cơ bản, là quyền bất khả xâm phạm của mọi công dân, được Nhà nước bảo đảm thông qua thiết chế pháp luật, cơ chế phân bổ nguồn lực và hệ thống dịch vụ công. Đây là sự dịch chuyển từ tư duy “ban phát” sang tư duy “bảo đảm”, từ tính chất “ơn huệ” sang “quyền được thụ hưởng”, gắn phúc lợi xã hội với trách nhiệm của Nhà nước, nghĩa vụ của xã hội và vai trò chủ thể của mỗi công dân. Cách tiếp cận này vừa phù hợp với Hiến pháp vừa tương thích với các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam là thành viên, đồng thời khẳng định định hướng xã hội chủ nghĩa trong phát triển - coi con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của mọi chính sách.
Thứ ba, đặt con người là trung tâm hướng đến tiến bộ, công bằng, văn minh. Phúc lợi xã hội toàn dân không chỉ là một chính sách cụ thể, mà còn là biểu hiện của một tư duy phát triển tiến bộ, thể hiện ở việc quán triệt quan điểm lấy con người làm trung tâm của sự phát triển, coi người dân vừa là mục tiêu vừa là động lực, từ đó tác động tới quá trình quản trị. Mọi thiết kế và thực thi chính sách phúc lợi phải dựa trên nhu cầu thiết yếu, quyền lợi chính đáng và tiềm năng phát triển của mỗi cá nhân, không phân biệt giới tính, dân tộc, thành phần xã hội hay nơi cư trú. Công bằng được hiểu không chỉ là chia sẻ nguồn lực theo nguyên tắc “ai cũng có phần”, mà còn là tạo cơ hội tiếp cận ngang bằng đối với các dịch vụ công cơ bản và cơ hội phát triển. Công bằng phải song hành với văn minh, nghĩa là nâng cao chuẩn mực sống, thúc đẩy trách nhiệm xã hội, khuyến khích sự tương trợ lẫn nhau và tôn trọng phẩm giá con người; đồng thời bảo đảm cơ chế giám sát minh bạch, để phúc lợi không chỉ là sự trợ giúp, mà là đòn bẩy phát triển con người và xã hội văn minh.
Tính tất yếu của chuyển đổi mô hình phúc lợi xã hội hỗ trợ sang mô hình phúc lợi xã hội phát triển ở Việt Nam
Trong tiến trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta luôn xác định phát triển phúc lợi xã hội là một trong những trụ cột quan trọng nhằm bảo đảm công bằng, tiến bộ xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân. Mô hình phúc lợi xã hội hỗ trợ ở Việt Nam được hình thành trong bối cảnh đất nước chuyển đổi từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đặc điểm nổi bật của mô hình này là Nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong việc cung cấp các dịch vụ phúc lợi, như dịch vụ công cơ bản (giáo dục, y tế, nhà ở), các chương trình trợ giúp xã hội,... Đối tượng thụ hưởng chủ yếu tập trung hỗ trợ các nhóm yếu thế, dễ bị tổn thương, như người nghèo, người khuyết tật, trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt, người cao tuổi không nơi nương tựa, người có công... Các chính sách chủ yếu mang tính chất trợ cấp, hỗ trợ trực tiếp hoặc gián tiếp nhằm bảo đảm mức sống tối thiểu thông qua hình thức các dịch vụ miễn phí (chủ đạo) hoặc thu một phần phí (rất ít).
Trong giai đoạn đầu của công cuộc đổi mới, Việt Nam thực hiện mô hình phúc lợi xã hội hỗ trợ như một công cụ chính sách nhằm bảo đảm ổn định xã hội, giảm thiểu tác động tiêu cực của biến động kinh tế, thiên tai, dịch bệnh và quá trình cấu trúc lại nền kinh tế. Mô hình này tập trung vào hỗ trợ trực tiếp và có chọn lọc đối với những nhóm yếu thế. Về bản chất, phúc lợi xã hội hỗ trợ mang tính chất “cứu trợ, bù đắp”, đặt trọng tâm vào xử lý hậu quả và giảm thiểu thiệt hại hơn là phòng ngừa rủi ro và đầu tư cho phát triển con người. Nguồn lực chủ yếu đến từ ngân sách nhà nước với phạm vi bao phủ hạn chế, thủ tục hành chính còn nặng tính xin - cho. Mô hình này giúp giải quyết tức thời các nhu cầu bức thiết, song cũng bộc lộ những hạn chế như phạm vi tác động hẹp, thiếu tính bền vững, chưa tạo được động lực để người dân chủ động vươn lên; đồng thời chưa tận dụng hết vai trò của các nguồn lực xã hội và cơ chế thị trường.
Trước yêu cầu mới của sự nghiệp phát triển đất nước, mô hình phúc lợi xã hội hỗ trợ từng bước được chuyển đổi sang mô hình phúc lợi xã hội phát triển, phù hợp với xu thế hội nhập và phát triển bền vững. Nghị quyết số 42 ra đời đánh dấu sự chuyển đổi sang mô hình phúc lợi xã hội phát triển, đây cũng là yêu cầu tất yếu dựa trên các luận điểm sau:
Thứ nhất, tiếp cận lý luận quyền con người. Các quyền về an sinh xã hội và phúc lợi xã hội, bao gồm quyền được học tập, chăm sóc sức khỏe, có việc làm, có nhà ở… là những quyền cơ bản đã được khẳng định trong Hiến pháp và các công ước quốc tế mà Việt Nam tham gia. Phúc lợi xã hội vì thế không thể chỉ là sự ưu đãi mà là nghĩa vụ Nhà nước phải bảo đảm và quyền nhân dân được thụ hưởng bình đẳng.
Thứ hai, tiếp cận lý luận phát triển bền vững. Phúc lợi xã hội phát triển hướng tới đầu tư cho con người như nguồn lực cốt lõi của tăng trưởng, kết hợp giữa bảo đảm công bằng xã hội và nâng cao năng suất, chất lượng lao động. Mô hình này gắn kết chặt chẽ giữa chính sách xã hội và chính sách kinh tế, không chỉ “khắc phục” khi khó khăn, mà còn “phòng ngừa” và “trao cơ hội” để mọi người tham gia và hưởng lợi từ quá trình phát triển.
Thứ ba, tiếp cận lý luận quản trị công mới. Nhà nước trong mô hình phúc lợi phát triển không đơn thuần là “người cấp phát” mà là nhà kiến tạo, tạo lập thể chế, huy động và điều phối hiệu quả các nguồn lực công - tư - cộng đồng; mở rộng hợp tác quốc tế; bảo đảm minh bạch, giám sát và trách nhiệm giải trình.
Thứ tư, tiếp cận mục tiêu định hướng xã hội chủ nghĩa. Chuyển sang mô hình phúc lợi xã hội phát triển là cụ thể hóa mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, bảo đảm “mọi người có cơ hội phát triển toàn diện”, giảm khoảng cách chênh lệch giữa các vùng, miền, nhóm dân cư và thế hệ.
Trong bối cảnh đất nước đang bước vào giai đoạn phát triển mới với những chuyển biến sâu sắc cả về kinh tế, xã hội lẫn thể chế, yêu cầu chuyển đổi mô hình phúc lợi xã hội từ hỗ trợ sang phát triển phản ánh đúng quy luật vận động của tiến trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế đã tạo ra những thay đổi căn bản trong cơ cấu xã hội, làm xuất hiện nhiều nhóm dân cư với nhu cầu đa dạng, đòi hỏi hệ thống phúc lợi phải được tổ chức lại theo hướng bao trùm, linh hoạt và hiệu quả. Đồng thời, quá trình già hóa dân số, sự phát triển của kinh tế số và cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư đang đặt ra những thách thức mới đối với việc bảo đảm phúc lợi xã hội, yêu cầu các chính sách không chỉ dừng lại ở hỗ trợ thụ động mà phải hướng tới phát triển năng lực, tạo cơ hội và khuyến khích sự tham gia chủ động của người dân vào quá trình phát triển. Trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, các chính sách phúc lợi cần được thiết kế như một bộ phận cấu thành của hệ thống bảo đảm quyền con người, quyền công dân, gắn với mục tiêu phát triển bền vững và tiến bộ xã hội. Việc chuyển đổi mô hình phúc lợi xã hội theo hướng phát triển không chỉ là sự thích ứng với bối cảnh mới mà còn thể hiện tư duy đổi mới, nhất quán của Đảng ta trong việc lấy con người là trung tâm, chủ thể và là động lực của sự phát triển.
Một số gợi ý chính sách
Trên cơ sở những thay đổi căn bản trong nhận thức về phúc lợi xã hội và chuyển đổi mô hình phúc lợi xã hội theo tinh thần Nghị quyết số 42, thời gian tới, để mô hình phúc lợi xã hội Việt Nam thực sự phát huy hiệu quả, cần tập trung vào một số nội dung sau:
Một là, đổi mới cách tiếp cận chính sách.
Trong tư duy phát triển hiện đại, cần nhận thức rõ đầu tư vào phúc lợi xã hội không phải là gánh nặng ngân sách mà là một hình thức đầu tư chiến lược tạo nền tảng vững chắc cho phát triển bền vững và tiến bộ xã hội. Việc Nhà nước dành nguồn lực cho phúc lợi xã hội không chỉ nhằm bảo đảm quyền thụ hưởng của người dân mà còn góp phần nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, năng suất lao động và tăng cường năng lực cạnh tranh quốc gia. Trong thực tiễn phát triển, những quốc gia có hệ thống phúc lợi xã hội vững mạnh thường đạt được mức tăng trưởng ổn định, gắn với sự hài hòa giữa phát triển kinh tế và tiến bộ xã hội. Đầu tư vào phúc lợi chính là đầu tư vào con người - chủ thể trung tâm của quá trình phát triển, từ đó tạo ra hiệu ứng lan tỏa tích cực đối với toàn bộ các lĩnh vực kinh tế - xã hội. Bên cạnh đó, một hệ thống phúc lợi xã hội phát triển sẽ giúp giảm thiểu các chi phí xã hội phát sinh từ bất bình đẳng, xung đột, tội phạm và các vấn đề an ninh phi truyền thống, qua đó tiết kiệm ngân sách trong dài hạn. Vì vậy, cần thay đổi nhận thức, chuyển từ tư duy chi tiêu sang tư duy đầu tư, coi phúc lợi xã hội là một bộ phận cấu thành không thể tách rời của chiến lược phát triển quốc gia, gắn với mục tiêu xây dựng xã hội dân chủ, công bằng, văn minh theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Chuyển từ cách tiếp cận đối tượng yếu thế sang tiếp cận theo vòng đời - hỗ trợ con người từ nhỏ đến khi già. Trước đây, phúc lợi xã hội thường được hiểu là sự hỗ trợ dành cho những nhóm yếu thế với mục tiêu giảm thiểu rủi ro và bất bình đẳng. Tuy nhiên, cách tiếp cận này mang tính phản ứng, bị động và dễ tạo ra tâm lý lệ thuộc. Ngược lại, tiếp cận theo vòng đời là cách nhìn toàn diện, chủ động và mang tính dự phòng nhằm hỗ trợ con người trong từng giai đoạn của cuộc đời. Mỗi giai đoạn đều có những nhu cầu đặc thù về giáo dục, y tế, việc làm, bảo hiểm, chăm sóc… và chính sách phúc lợi cần được thiết kế để đồng hành cùng con người trong suốt hành trình phát triển. Đây là cách tiếp cận nhân văn, khẳng định vai trò của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người, thúc đẩy cơ hội phát triển bình đẳng cho mọi công dân.
Hai là, bảo đảm nguồn lực tài chính và phân bổ nguồn lực.
Việc bảo đảm nguồn lực tài chính không chỉ là điều kiện cần để triển khai các chính sách mà còn phản ánh cam kết chính trị của Nhà nước trong thực hiện công bằng xã hội và phát triển con người. Bối cảnh hiện nay đặt ra yêu cầu phúc lợi xã hội ngày càng đa dạng, việc xây dựng cơ chế tài chính bền vững, linh hoạt và công bằng là nhiệm vụ cấp thiết. Trong quá trình xây dựng hệ thống phúc lợi xã hội hướng tới phát triển bền vững và tiến bộ xã hội, bảo đảm tài chính là yếu tố nền tảng, quyết định hiệu quả thực thi chính sách. Phúc lợi xã hội không thể chỉ dựa vào ngân sách nhà nước, mà cần được thiết kế trên nguyên tắc đa dạng hóa nguồn lực, kết hợp giữa ngân sách công, đóng góp xã hội, khu vực tư nhân và các quỹ tài chính. Đồng thời, cần phát triển các quỹ phúc lợi xã hội độc lập, được quản lý minh bạch, chuyên nghiệp, có khả năng sinh lời để bảo đảm chi trả lâu dài. Khuyến khích doanh nghiệp tham gia vào các chương trình phúc lợi thông qua trách nhiệm xã hội cũng là một hướng đi hiệu quả, góp phần chia sẻ gánh nặng với Nhà nước. Việc ứng dụng công nghệ số trong quản lý và giám sát chi tiêu phúc lợi sẽ giúp tối ưu hóa nguồn lực, giảm thất thoát và nâng cao hiệu quả phục vụ người dân.
Trong bối cảnh đổi mới tư duy quản lý nhà nước theo hướng quản trị công mới, việc phân bổ nguồn lực thực hiện phúc lợi xã hội cần được chuyển từ cơ chế hành chính bao cấp sang cơ chế phân bổ dựa trên hiệu quả, công bằng và nhu cầu thực tế của người dân. Quản trị công mới nhấn mạnh vai trò của nhà nước như một nhà điều phối và bảo đảm dịch vụ công, thay vì trực tiếp bao cấp toàn diện. Theo đó, nguồn lực phúc lợi xã hội cần được phân bổ theo nguyên tắc lấy người dân làm trung tâm, ưu tiên các nhóm dễ bị tổn thương, vùng sâu, vùng xa, đồng thời khuyến khích sự tham gia của các chủ thể ngoài nhà nước như doanh nghiệp, tổ chức xã hội và cộng đồng. Việc phân bổ không chỉ dựa vào chỉ tiêu hành chính, mà cần gắn với kết quả đầu ra, mức độ hài lòng của người thụ hưởng và hiệu quả sử dụng ngân sách. Cơ chế đặt hàng dịch vụ công, đấu thầu xã hội hóa, hợp tác công - tư (PPP) cần được áp dụng linh hoạt để tối ưu hóa nguồn lực và nâng cao chất lượng dịch vụ phúc lợi. Đồng thời, cần tăng cường minh bạch, trách nhiệm giải trình và giám sát xã hội trong quá trình phân bổ, nhằm bảo đảm công bằng và phòng ngừa thất thoát, lãng phí.
Ba là, xây dựng hệ thống dịch vụ phúc lợi xã hội chất lượng tốt, bao trùm.
Dịch vụ phúc lợi xã hội không chỉ là sự hỗ trợ về vật chất, mà còn là công cụ bảo đảm quyền tiếp cận các dịch vụ cơ bản, nâng cao đời sống tinh thần của người dân. Một hệ thống dịch vụ chất lượng cao phải bảo đảm tính chuyên nghiệp, hiệu quả, thân thiện với người dân, đồng thời có khả năng đáp ứng nhu cầu đa dạng của các nhóm dân cư trong từng giai đoạn cuộc đời. Tính bao trùm thể hiện ở việc “không để ai bị bỏ lại phía sau”, bất kể hoàn cảnh kinh tế, địa lý hay năng lực cá nhân, đều có quyền tiếp cận công bằng với các dịch vụ phúc lợi. Để đạt được điều đó, cần đầu tư đồng bộ vào hạ tầng dịch vụ, nâng cao năng lực đội ngũ cán bộ làm công tác xã hội, ứng dụng công nghệ số trong quản lý và cung cấp dịch vụ. Việc xây dựng hệ thống dịch vụ phúc lợi xã hội chất lượng, bao trùm không chỉ góp phần nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, mà còn tạo nền tảng vững chắc cho phát triển kinh tế - xã hội bền vững, củng cố niềm tin của nhân dân vào vai trò của Nhà nước trong bảo đảm công bằng và tiến bộ xã hội./.
Bảo đảm quyền hưởng an sinh xã hội của người lao động khuyết tật thông qua các quy định về bảo hiểm xã hội ở Việt Nam hiện nay  (10/09/2025)
Doanh nghiệp nhà nước với vai trò tiên phong đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số: Thực tiễn từ Tổng Công ty Hàng không Việt Nam  (30/08/2025)
Tuyên ngôn Độc lập - bản hùng ca khẳng định quyền độc lập, tự chủ của dân tộc Việt Nam  (30/08/2025)
Nghĩa vụ của Nhà nước về bảo đảm, bảo vệ quyền con người của người tiêu dùng thực phẩm  (27/08/2025)
Bảo đảm an sinh xã hội và giải quyết vấn đề xã hội trong bối cảnh mới  (13/08/2025)
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Bảo đảm quyền trẻ em trong mô hình chính quyền địa phương 2 cấp: Thuận lợi, thách thức và giải pháp
- Kinh nghiệm thực hiện mô hình “bí thư chi bộ đồng thời là trưởng thôn, bản, tổ dân phố” ở Trung Quốc - Vận dụng cho thực tiễn Việt Nam trong giai đoạn hiện nay
- Phát triển văn hóa gắn với phát triển kinh tế và phát triển xã hội: Quá trình tất yếu, hướng đích của hệ mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm