Bảo đảm hài hòa mối quan hệ giữa di sản văn hóa và phát triển kinh tế - xã hội

Nguyễn Bá Thanh
Tổng cục Chính trị, Bộ Quốc phòng
23:21, ngày 06-12-2024

Đại hội XIII của Đảng xác định, cần tiếp tục nắm vững và xử lý tốt mối quan hệ “giữa tăng trưởng kinh tế và phát triển văn hóa, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường”… Có kế hoạch, cơ chế và giải pháp xử lý đúng đắn mối quan hệ giữa bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa, lịch sử truyền thống dân tộc trong xây dựng con người, phát triển kinh tế - xã hội. Do vậy,  tiềm năng và lợi thế so sánh trong phát triển các ngành kinh tế dựa trên khai thác tài nguyên di sản ở nước ta cần có những giải pháp để bảo đảm hài hòa mối quan hệ giữa di sản văn hóa và phát triển kinh tế - xã hội.

Tuyên truyền, giáo dục để nâng cao nhận thức

Tuyên truyền, giáo dục có ý nghĩa quan trọng hàng đầu trong quá trình gắn kết hài hòa giữa di sản văn hóa và phát triển kinh tế - xã hội trên cả nước nói chung và hai địa bàn nghiên cứu nói riêng. Nội dung và hình thức tuyên truyền, giáo dục cần phong phú, đa dạng và đổi mới để phù hợp với thực tiễn hai địa phương trên. Hoạt động tuyên truyền, giáo dục cần tập trung nâng cao nhận thức về những nội dung cơ bản như sau:

Một là, đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả công tác tuyên truyền thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng, phát huy mặt tích cực của truyền thông xã hội, các hoạt động giáo dục, triển lãm, bảo tàng, lễ hội cùng các sinh hoạt văn hóa khác để quán triệt quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng về di sản văn hóa, về mối quan hệ giữa di sản văn hóa và phát triển kinh tế - xã hội nhằm nâng cao nhận thức của các cấp ủy, chính quyền (trong đó có cán bộ quản lý và cán bộ công tác trong lĩnh vực văn hóa) cũng như người dân địa phương, doanh nghiệp và toàn xã hội về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của di sản văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội. Tiếp tục đổi mới tư duy, nhận thức một cách sâu sắc và toàn diện hơn (trước hết ở đội ngũ cán bộ lãnh đạo và quản lý các cấp) về mối quan hệ biện chứng giữa kinh tế và văn hóa trong bối cảnh phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế, giữa bảo tồn và phát huy, giữa khai thác và bảo vệ nhằm khơi thông và phát huy hiệu quả giá trị của các di sản, về vấn đề quản trị di sản, coi đầu tư phục dựng, bảo tồn và phát huy di sản là đầu tư vào phát triển kinh tế - xã hội, để di sản văn hóa trở thành nguồn lực “đặc hữu” có thể xây dựng thành các sản phẩm hàng hóa và dịch vụ đặc thù đa giá trị, tham gia ngày càng nhiều vào thị trường tiêu dùng của xã hội.

Hai là, thông qua việc tổ chức các chương trình, kế hoạch phối hợp với các cơ quan báo chí, các đài truyền hình, đài phát thanh, các chương trình truyền thông, các hoạt động tương tác, kết hợp hiệu quả giữa giáo dục gia đình, nhà trường và xã hội để nâng cao nhận thức, trách nhiệm, ý thức chấp hành pháp luật về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa. Nâng cao hiệu quả phổ biến pháp luật về di sản văn hóa; tăng cường tập huấn, phổ biến các văn bản quy phạm pháp luật về bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa gắn với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, như các công ước quốc tế về lĩnh vực di sản văn hóa của UNESCO; Luật Di sản văn hóa (năm 2001, sửa đổi, bổ sung năm 2009, văn bản hợp nhất năm 2013); Nghị định số 109/2017/NĐ-CP, ngày 21-9-2017, của Chính phủ quy định về “Bảo vệ và quản lý Di sản văn hóa và thiên nhiên thế giới ở Việt Nam”; cùng các văn bản quy phạm pháp luật khác. Đây là những văn bản tạo hành lang pháp lý và điều kiện chính sách quan trọng đối với công tác quản lý, bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa. 

Ba là, đặc biệt công tác tuyên truyền, giáo dục cần chú trọng khơi dậy lòng tự hào, phát huy trách nhiệm và vai trò chủ thể của người dân, nhất là thế hệ trẻ đối với các di sản văn hóa của quê hương, trong đó nhấn mạnh cần kết hợp hài hòa giữa bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa với hoạt động kinh tế - xã hội của địa phương, gắn với công tác bảo vệ môi trường sinh thái trong quá trình khai thác nguồn tài nguyên nhân văn quý giá này để phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện sinh kế, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Xây dựng ý thức về quyền và nghĩa vụ đối với các di sản văn hóa, trách nhiệm và quyền lợi trong bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa trong mỗi cán bộ, người dân và doanh nghiệp, phát huy sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị trong kết hợp hài hòa giữa bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa và phát triển kinh tế - xã hội của hai địa bàn nghiên cứu của luận án, qua đó góp phần thúc đẩy sự phát triển bền vững của địa phương và cả nước.

Đổi mới và hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách về văn hóa và di sản văn hóa

Vấn đề đổi mới và hoàn thiện thể chế, cơ chế, chính sách là một trong những yêu cầu cấp thiết được đặt ra với lĩnh vực văn hóa nói chung và với di sản văn hóa nói riêng ở các vùng, miền của cả nước, trong đó có hai địa bàn nghiên cứu của luận án. Vấn đề này tập trung vào một số nội dung chủ yếu sau:

Một là, tiếp tục hoàn thiện hệ thống thể chế phát triển bền vững quốc gia và các địa phương theo hướng lồng ghép các quan điểm, nguyên tắc phát triển bền vững trong các chiến lược, chính sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển, gắn kết bảo đảm hài hòa giữa kinh tế, văn hóa, xã hội, môi trường; bảo đảm các mục tiêu phát triển bền vững với  các tiêu chí kiểm tra, đánh giá một cách thường xuyên, chặt chẽ. Chú trọng chất lượng thực sự của tăng trưởng kinh tế của địa phương, trong đó có kinh tế di sản, các ngành công nghiệp văn hóa theo phương châm không thể phát triển bằng mọi giá mà cần đặt trong mối quan hệ với chất lượng thực sự của phát triển đời sống, bảo đảm an sinh xã hội, giảm thiểu tác động tới môi trường, đặc biệt là bảo vệ được không gian di sản văn hóa, hệ sinh thái di sản văn hóa...

Hai là, hoàn thiện cơ chế, chính sách để tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, trong đó quy định việc phân cấp, phân quyền về di sản văn hóa trên tất cả các lĩnh vực di tích, bảo tàng, di sản văn hóa phi vật thể và di sản tư liệu bảo đảm phù hợp với thực tiễn; hoàn thiện cơ chế, chính sách, quy định rõ hơn nội dung các hoạt động nhằm thu hút, thúc đẩy xã hội hóa, huy động sự quan tâm, ủng hộ của các tổ chức, cá nhân và xã hội đối với công tác bảo vệ, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa, khuyến khích liên doanh, liên kết với các tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp ở trong nước và nước ngoài trong việc đầu tư cho hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; hoàn thiện các quy định về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa. Hoàn thiện cơ chế phân bổ nguồn lực, kinh phí phù hợp cho các di sản văn hóa trên hai địa bàn nghiên cứu nhằm nâng cao hiệu quả sự gắn kết giữa di sản văn hóa và phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Đẩy mạnh việc thực hiện Luật Di sản văn hóa (sửa đổi) được kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XV thông qua vào ngày 23-11-2024 - Ngày Di sản văn hóa Việt Nam (có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-2025) với những điểm mới cơ bản, như: quy định cụ thể việc xác lập di sản văn hóa theo từng loại hình sở hữu toàn dân, sở hữu chung, sở hữu riêng phù hợp với Bộ luật Dân sự và quy định khác của pháp luật có liên quan; quy định chính sách của Nhà nước trong hoạt động bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa, ưu tiên bố trí ngân sách nhà nước cho các hoạt động có tính đặc thù; đào tạo, bồi dưỡng nhân lực tham gia quản lý, bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; hoàn thiện các hành vi bị nghiêm cấm để bảo đảm chính xác, đầy đủ hơn, làm cơ sở cho việc hướng dẫn thực hiện, kiểm tra, xử lý vi phạm trong bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa; quy định nguyên tắc và thẩm quyền thực hiện điều chỉnh ranh giới các khu vực bảo vệ để bảo đảm tính khả thi khi áp dụng trên thực tiễn; quy định cụ thể việc sửa chữa, cải tạo, xây dựng công trình, nhà ở riêng lẻ trong và ngoài khu vực bảo vệ di tích; nhấn mạnh việc hoàn thiện hành lang pháp lý cho hoạt động sử dụng, khai thác di sản văn hóa, xây dựng cơ sở dữ liệu quốc gia về di sản văn hóa, chuyển đổi số, việc xã hội hóa trong lĩnh vực bảo vệ và phát huy giá trị di sản văn hóa...

Ba là, tập trung đổi mới cơ chế đầu tư tài chính trong lĩnh vực văn hóa, quy định về mô hình hợp tác công - tư trong quản lý, bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa… nhằm giải quyết triệt để những “điểm nghẽn”, tạo động lực cho sự phát triển, để di sản văn hóa thực sự trở thành nguồn lực, động lực cho phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương và cả nước.

Bốn là, hoàn thiện, bổ sung các quy định pháp luật về quyền tác giả, quyền liên quan đáp ứng yêu cầu bảo hộ và thực thi quyền trong nước và hội nhập quốc tế. Xây dựng, đề xuất các chính sách ưu đãi về vốn, thuế, đất đai, doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực văn hóa và di sản văn hóa. Có cơ chế ưu đãi, đơn giản hóa các thủ tục hành chính, tạo môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp kinh doanh đầu tư trong lĩnh vực di sản văn hóa; hoàn thiện chính sách đặt hàng, ưu đãi khuyến khích các doanh nghiệp đầu tư phát triển các ngành công nghiệp văn hóa trên cơ sở phát huy tiềm năng của di sản văn hóa tại các địa phương. Thúc đẩy khả năng tiếp cận, sử dụng sản phẩm, dịch vụ văn hóa của công chúng thông qua việc hình thành cơ chế khuyến khích doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực văn hóa, di sản văn hóa đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật, ứng dụng công nghệ tiên tiến để tăng cường sáng tạo, sản xuất và nâng cao chất lượng sản phẩm.

Nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước về di sản văn hóa

Vấn đề này tập trung vào một số nội dung sau:

Một là, nghiên cứu và giải quyết tốt mối quan hệ liên vùng, liên cấp, liên ngành trong công tác quản trị địa phương, quản trị quốc gia về phục dựng, bảo tồn di sản văn hóa và phát triển kinh tế - xã hội. Bổ sung, hoàn thiện các cơ chế, chính sách để nâng cao hiệu quả quản trị di sản văn hóa, gắn kết hài hòa giữa bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội của hai địa bàn nghiên cứu, trong đó chú ý các chính sách đặc thù đối với di sản, phục dựng di sản, phát triển kinh tế di sản. Thực hiện phân cấp quản lý di sản văn hóa để nâng cao trách nhiệm của các cấp ủy, chính quyền về bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa. Chú trọng hơn nữa yếu tố bảo tồn di sản văn hóa trong công tác quy hoạch của địa phương, tiếp cận vấn đề một cách tổng thể, liên ngành để đề xuất các giải pháp thích hợp, tạo dựng cảnh quan phù hợp cho khu vực di sản văn hóa, góp phần làm tăng giá trị của di sản văn hóa và tạo điểm nhấn, sức hấp dẫn cho các sản trên địa bàn.

Hai là, hoàn thiện cơ chế, chính sách, nâng cao vai trò, hiệu quả quản lý nhà nước, đồng thời quy định cụ thể về vai trò, trách nhiệm của cộng đồng và chính sách hỗ trợ người dân trong bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa trên cơ sở các quy định của Luật Di sản văn hóa, Luật Du lịch và các quy định của pháp luật khác có liên quan. Hệ thống luật pháp và các chính sách cần tạo môi trường lành mạnh cho quá trình sáng tạo, sản xuất, truyền bá, lưu giữ và tiếp nhận, thưởng thức các giá trị di sản văn hóa, qua đó lan tỏa những giá trị tốt đẹp của di sản văn hóa trong cuộc sống đương đại. Tổ chức tốt công tác thanh tra, kiểm tra việc thực hiện pháp luật và các quy định của Nhà nước về hoạt động bảo tồn và khai thác di sản văn hóa trong phát triển kinh tế - xã hội.

Ba là, xây dựng cơ chế phối hợp hài hòa giữa các chủ thể và phân chia công bằng lợi ích từ việc khai thác các giá trị kinh tế của di sản sản văn hóa.

Cần thống nhất quan điểm bảo tồn di sản là nguyên tắc hàng đầu, không “hy sinh” di sản để phát triển kinh tế bằng mọi giá, đặc biệt chú ý đến vòng đời, “tuổi thọ” của điểm đến di sản, chống sự quá tải trong việc đón khách du lịch và các hoạt động khác. Cần xây dựng một chiến lược sử dụng tốt nhất các tài nguyên môi trường, xác định môi trường tự nhiên và cảnh quan sinh thái là điều kiện tiên quyết trong phát triển kinh tế tương lai; giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa lợi ích của các bên tham gia hoạt động kinh tế. Bảo đảm hoạt động kinh tế tồn tại lâu dài, định hướng cộng đồng cư dân địa phương vừa thực hành kinh tế truyền thống, vừa tham gia kinh tế di sản và các hoạt động dịch vụ có liên quan. Lợi nhuận của hoạt động kinh tế cần phải được phân bổ công bằng, đóng góp cho việc xóa đói, giảm nghèo đa chiều bền vững ở địa phương cũng như hoạt động bảo tồn di sản văn hóa. Các bên tham gia quản lý và khai thác di sản văn hóa đều phải chia sẻ quyền lợi và trách nhiệm theo mức độ liên đới (trách nhiệm quản lý; trách nhiệm bảo tồn; trách nhiệm sửa chữa tu bổ; trách nhiệm xây dựng các sản phẩm du lịch trên cơ sở tôn trọng giá trị di sản; trách nhiệm tuyên truyền, quảng bá; trách nhiệm sử dụng các dịch vụ đi kèm...).

Phát triển các ngành công nghiệp văn hóa dựa trên nguồn lực di sản văn hóa

Thực tiễn thời gian qua ở nước ta cho thấy, các ngành công nghiệp văn hóa Việt Nam đã và đang khai thác dựa trên giá trị các di sản văn hóa để tạo nên nhiều sản phẩm hàng hóa và dịch vụ độc đáo, hấp dẫn, ngày càng trở thành những ngành kinh tế dịch vụ quan trọng, phát triển rõ rệt về chất và lượng, đóng góp tích cực vào tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm, đáp ứng nhu cầu sáng tạo, hưởng thụ, tiêu dùng văn hóa của người dân trong nước và xuất khẩu; góp phần quảng bá hình ảnh đất nước, con người Việt Nam và củng cố sức mạnh mềm văn hóa quốc gia trên trường quốc tế. Vấn đề này tập trung vào một số nội dung sau:

Một là, tiếp tục đẩy mạnh phát triển một số ngành công nghiệp văn hóa có thế mạnh, như du lịch văn hóa, thủ công mỹ nghệ, nghệ thuật biểu diễn, quảng cáo, thiết kế… trên cơ sở khai thác, phát huy giá trị các di sản văn hóa. Khuyến khích, tạo điều kiện để các thành phần kinh tế tham gia phát triển du lịch văn hóa và các ngành công nghiệp văn hóa khác. Khuyến khích phát triển các loại hình du lịch có trách nhiệm gắn với văn hóa cộng đồng, gắn với bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa. Cân nhắc việc triển khai hoạt động du lịch tại một số di sản văn hóa dễ bị tổn thương, biến dạng trong quá trình phát triển. Quy định chi tiết về quy tắc ứng xử với di sản; kiểm soát và cân bằng nhịp sống của hệ sinh thái tại di sản. Xử lý nghiêm, triệt để những vi phạm đối với di sản văn hóa đi liền với việc tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục nâng cao nhận thức cho doanh nghiệp, người dân và du khách. Phát huy các nghề thủ công mỹ nghệ truyền thống, xây dựng các chương trình nghệ thuật biểu diễn trên cơ sở tôn trọng tính đa dạng văn hóa, tính chỉnh thể nguyên hợp của di sản văn hóa phi vật thể, góp phần bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa.

Hai là, thúc đẩy phát triển hợp tác công - tư, đẩy mạnh việc liên kết và khơi thông các nguồn lực, thực hiện các chính sách ưu đãi đầu tư, thu hút vốn, nguồn nhân lực sáng tạo trong các ngành nghệ thuật như âm nhạc, hội họa, trình diễn... trên cơ sở khai thác nguồn vốn từ di sản văn hóa; khuyến khích doanh nghiệp và cộng đồng cư dân địa phương (như người dân, nghệ nhân, nghệ sĩ, doanh nhân…), các tổ chức xã hội nghề nghiệp cùng tham gia sáng tạo văn hóa và phát triển các ngành công nghiệp văn hóa. Thu hút các nhà đầu tư để phát triển các dịch vụ vui chơi, giải trí, thúc đẩy phát triển kinh tế ban đêm. Cần xây dựng thêm nhiều mô hình sáng tạo mới theo hướng xã hội hóa để huy động sự chung tay giữa Nhà nước, doanh nghiệp, nghệ sĩ, người dân cùng tham gia xây dựng, phát triển các ngành công nghiệp văn hóa gắn với thực hiện các tiêu chí trong mạng lưới thành phố sáng tạo của UNESCO.

Ba là, đẩy mạnh liên kết, hợp tác, xúc tiến, quảng bá du lịch trong nước và thế giới theo hướng chuyên nghiệp với các chương trình quảng bá thương hiệu sản phẩm, dịch vụ văn hóa, qua đó phát triển các thương hiệu du lịch có thế mạnh ở hai địa bàn nghiên cứu. Đẩy mạnh hoạt động tổ chức hoặc phối hợp tổ chức các sự kiện, triển lãm, chương trình giao lưu, giới thiệu về di sản văn hóa lồng ghép với các chương trình giới thiệu, quảng bá hợp tác về đầu tư, thương mại, du lịch,... ở quy mô quốc gia và quốc tế trên hai địa bàn nghiên cứu với nhiều lợi thế so sánh. Đẩy mạnh hoạt động sáng tạo, đổi mới trong việc tổ chức các ngày văn hóa, tuần văn hóa, các lễ hội văn hóa - du lịch, các sự kiện, chương trình hoạt động văn hóa nghệ thuật trên cơ sở khai thác giá trị các di sản văn hóa ở hai địa bàn nghiên cứu ở quy mô trong nước và quốc tế, làm cho các hoạt động này trở nên chủ động và hấp dẫn hơn.

Đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo trong bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa

Bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học - công nghệ và đổi mới sáng tạo mở ra nhiều cơ hội cho công tác bảo tồn, phát huy giá trị các di sản văn hóa gắn kết với phát triển kinh tế - xã hội của các địa phương và cả nước. Song, sự biến đổi khí hậu với những diễn biến khó lường, mặt trái của kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, xu thế chuyển đổi số cùng nhiều thách thức an ninh phi truyền thống khác đã và đang đặt ra không ít thách thức đối với các hoạt động liên quan đến di sản văn hóa. Thực tiễn này đòi hỏi cần có cách thức quản trị di sản một cách bền vững, trong đó có việc đẩy mạnh ứng dụng các thành tựu khoa học, công nghệ và đổi mới sáng tạo. Vấn đề này nên tập trung vào một số nội dung sau:

Một là, rà soát, hoàn thiện hệ thống văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành và có liên quan tới di sản văn hóa nhằm thúc đẩy chuyển đổi số trong lĩnh vực di sản văn hóa trên cả nước nói chung, tạo cơ sở để các địa phương triển khai áp dụng phù hợp với thực tiễn từng vùng, miền, địa phương (trong đó có hai địa bàn nghiên cứu của luận án). Xây dựng, hoàn thiện và ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật về di sản văn hóa số và ứng dụng công nghệ trong việc số hóa thông tin, chuẩn hóa hệ dữ liệu di sản văn hóa tại địa phương trong kho dữ liệu số quốc gia; kết nối, liên thông, chia sẻ thông tin, dữ liệu với các lĩnh vực bảo tàng, thư viện; xác lập quyền truy cập, khai thác và sử dụng thông tin, dữ liệu cho các tổ chức, cá nhân phục vụ phát triển kinh tế - xã hội địa phương trên cơ sở khai thác nguồn lực di sản văn hóa. Cập nhật thường xuyên danh sách các di sản cần số hóa để bảo đảm hiệu quả về đầu tư và đáp ứng nhu cầu sử dụng của xã hội trong giai đoạn chuyển đổi số. Nghiên cứu, đề xuất cơ chế, chính sách thu hút doanh nghiệp, tổ chức, cá nhân tham gia đầu tư phát triển và cùng khai thác hệ sinh thái số về di sản văn hóa; khuyến khích việc tài trợ và đóng góp, ủng hộ vật chất cũng như các điều kiện khác thực hiện chuyển đổi số trong lĩnh vực di sản văn hóa.

Hai là, trang bị các điều kiện về cơ sở vật chất, trang thiết bị cho các đơn vị, địa phương nhằm bảo đảm sự tương đồng về hạ tầng kỹ thuật trong toàn hệ thống. Xây dựng hệ thống tiêu chí chuyển đổi số cho các thông tin dữ liệu ứng dụng trên phần mềm lưu trữ, bản đồ số và liên kết, khai thác dữ liệu đa chiều về di sản văn hóa thống nhất trên toàn quốc, trong đó có bộ tiêu chí về di sản văn hóa. Nghiên cứu, xây dựng thống nhất nền tảng kỹ thuật số chung về quản lý, bảo tồn các dữ liệu trong lĩnh vực di sản văn hóa; có khả năng mở rộng để các địa phương, tổ chức kết nối và tích hợp với các hệ thống thông tin khác. Xây dựng phần mềm, ứng dụng quản lý cơ sở dữ liệu các di sản văn hóa trên nền tảng bản đồ số thống nhất VMAP của Đề án Hệ Tri thức Việt số hóa, cho phép lưu trữ, quản lý, khai thác và lập báo cáo từ các nguồn dữ liệu số hóa; bảo đảm việc tra cứu thuận tiện đáp ứng nhu cầu quản lý nhà nước, khả năng tích hợp, chia sẻ, kết nối và trực quan trong quá trình quản lý, khai thác dữ liệu về di sản.

Ba là, rà soát, thu thập, bổ sung để hoàn thiện hồ sơ tư liệu về các di tích, hiện vật, di sản tư liệu và di sản văn hóa phi vật thể đã được xếp hạng, ghi danh và công nhận theo quy định của quốc tế, khu vực và quốc gia để xây dựng danh sách ưu tiên các hạng mục cần số hóa. Xây dựng, tích hợp, kết nối, liên thông, chia sẻ cơ sở dữ liệu, trao đổi tài nguyên thông tin di sản văn hóa số trong nước; tăng cường hợp tác trong việc bổ sung, chia sẻ, dùng chung cơ sở dữ liệu hoặc quyền truy cập tài nguyên thông tin số về di sản văn hóa. Thúc đẩy các dự án số hóa di sản văn hóa trên cơ sở xây dựng mới và tích hợp cơ sở dữ liệu số sẵn có theo hướng mở với sự tham gia của doanh nghiệp, cá nhân, cộng đồng; tạo cơ chế liên tục tích hợp các sản phẩm số hóa theo hướng mở và có sự tham gia tích cực của cộng đồng. Việc triển khai hệ thống thông tin, cơ sở dữ liệu chuyên ngành cần có tính tổng thể, đồng bộ, cần có lộ trình cụ thể và kịp thời ban hành các tiêu chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật dữ liệu ngành để các địa phương có thể chủ động triển khai các hệ thống. Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch cần phối hợp với Bộ Thông tin và Truyền thông xem xét, bổ sung văn bản mang giá trị pháp lý về cách tính định mức số hóa 3D lĩnh vực di sản./.