Tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước

Nguyễn Quốc Ngữ TS, Phó Vụ trưởng Vụ Kinh tế, Văn phòng Trung ương Đảng
16:37, ngày 21-03-2013
TCCS - Thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa IX, thời gian qua, chúng ta đã đạt nhiều kết quả tích cực, góp phần khai thác và phát huy hiệu quả nguồn lực đất đai phục vụ sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, ổn định xã hội, an ninh lương thực quốc gia, bảo vệ môi trường,...

Thông qua việc thực hiện Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa IX, hiệu quả quản lý nhà nước về đất đai từng bước được tăng cường; chính sách, pháp luật về đất đai ngày càng được hoàn thiện; các quyền của người sử dụng đất được mở rộng và được Nhà nước bảo đảm. Thị trường bất động sản, trong đó có quyền sử dụng đất đã được hình thành và phát triển tương đối nhanh. Kết quả đó khẳng định các quan điểm chỉ đạo, định hướng chính sách, pháp luật về đất đai được nêu trong Nghị quyết cơ bản là đúng đắn, phù hợp với đặc điểm, tình hình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước trong những năm qua. Tuy nhiên, vẫn còn một số yếu kém, khuyết điểm; việc chấp hành kỷ luật, kỷ cương trong quản lý, sử dụng đất đai chưa nghiêm; tình trạng sử dụng đất sai mục đích, lãng phí, kém hiệu quả còn xảy ra ở nhiều nơi; chính sách, pháp luật ban hành nhiều nhưng hiệu quả thấp; việc phân công, phân cấp trong quản lý đất đai còn chưa hợp lý; năng lực quản lý, tổ chức bộ máy, cơ sở vật chất phục vụ quản lý nhà nước về đất đai chưa tương xứng với nhiệm vụ được giao; thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, giải quyết khiếu nại, tố cáo chưa đáp ứng được yêu cầu,...

Một số thành tựu đạt được

- Việc học tập, quán triệt Nghị quyết đã tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và hành động, từ lãnh đạo các cấp đến cán bộ, đảng viên và nhân dân về quan điểm, nội dung đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai của Đảng và Nhà nước. Quan điểm và nội dung của Nghị quyết đã được thể chế hóa thành các quy định của Luật Đất đai năm 2003, các luật khác có liên quan và các văn bản hướng dẫn thi hành.

- Việc phân bổ quỹ đất từng bước đáp ứng yêu cầu cho các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh. Chuyển dịch cơ cấu sử dụng đất đã phù hợp với quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Quỹ đất nông nghiệp đáp ứng yêu cầu bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, bảo vệ và phát triển rừng. Đất dành cho phát triển công nghiệp, dịch vụ, phát triển đô thị, khu dân cư nông thôn, xây dựng công trình giao thông, thủy lợi, cung cấp điện được mở rộng, từng bước đáp ứng nhu cầu của giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhu cầu đô thị hóa. Đất sử dụng vào mục đích quốc phòng, an ninh kết hợp với làm kinh tế tại khu vực biên giới, hải đảo đã góp phần làm thay đổi diện mạo khu vực biên giới và biển, đảo. Nhu cầu về đất đai của các cơ sở tôn giáo đã được quan tâm giải quyết. Diện tích đất chưa sử dụng đã từng bước được khai thác đưa vào sử dụng đáp ứng cho các mục đích nông nghiệp và phi nông nghiệp. Chính sách, pháp luật đất đai từng bước được hoàn thiện, Nghị quyết đã được thể chế hóa từng bước làm rõ nội dung quyền của chủ sở hữu đối với đất đai; tạo sự bình đẳng giữa nhà đầu tư trong nước và nước ngoài khi tiếp cận đất đai; giải quyết tốt hơn việc bồi thường, hỗ trợ và tái định cư cho người dân khi Nhà nước thu hồi đất. Chính sách, pháp luật đối với đất nông nghiệp đã đổi mới tạo điều kiện cho người nông dân yên tâm đầu tư phát triển sản xuất nông nghiệp, góp phần giải phóng sức lao động, đưa nông nghiệp phát triển toàn diện, nhất là sản xuất lương thực, cây công nghiệp, nuôi trồng thủy sản, đưa Việt Nam trở thành nước xuất khẩu hàng đầu thế giới về gạo, thủy sản và các nông sản khác. Chính sách bảo đảm đất sản xuất nông nghiệp cho đồng bào dân tộc thiểu số được tiếp tục thực hiện(1). 

Quyền của người sử dụng đất theo Luật Đất đai năm 2003 đã dần được mở rộng, được Nhà nước bảo đảm và phát huy hiệu quả trong đời sống, sản xuất, kinh doanh, phát triển thị trường bất động sản; tăng cường giao dịch dân sự, hạn chế can thiệp hành chính trong tạo lập quỹ đất thực hiện các dự án đầu tư; làm cho người sử dụng đất yên tâm đầu tư, phát triển sản xuất, kinh doanh tăng hiệu quả sử dụng đất. Thị trường bất động sản đã từng bước được hình thành và hoạt động bước đầu minh bạch, hiệu quả hơn. Nhà nước cố gắng lớn trong việc tạo nguồn cung về đất đai cho thị trường sơ cấp thông qua việc lập, thực hiện quy hoạch sử dụng đất, giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, tạo quỹ đất “sạch” để đấu giá. Chính sách tài chính về đất đai được hoàn thiện theo hướng tiếp cận thị trường, tạo nguồn lực quan trọng để phát triển kinh tế - xã hội. Nguồn thu từ đất đai cho ngân sách nhà nước luôn tăng qua các năm (năm 2002 là 5.486 tỷ đồng, chiếm 4,4% tổng thu ngân sách nhà nước; năm 2010 là 67.000 tỷ đồng, chiếm 11,21%). Chính sách thuế đối với đất đai được đổi mới, hỗ trợ, khuyến khích sản xuất, kinh doanh, nhất là nông nghiệp. 

- Công tác quản lý nhà nước về đất đai có nhiều chuyển biến tích cực. Hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về đất đai đã từng bước được hoàn thiện(2). Quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được triển khai đồng bộ ở cả bốn cấp hành chính(3). Việc thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội. Cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất được đẩy mạnh(4). Công tác thanh tra, kiểm tra, giám sát việc thi hành pháp luật về đất đai được tiến hành thường xuyên và có trọng tâm, trọng điểm. Công tác giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai có nhiều tiến bộ(5). Tổ chức bộ máy quản lý đất đai được củng cố, đội ngũ cán bộ được tăng cường.

Một số hạn chế, yếu kém

Việc thể chế Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 khóa IX chưa đồng bộ, một số nội dung còn chậm, chưa theo kịp với phát triển kinh tế - xã hội, có nội dung thể chế chưa phù hợp với thực tiễn. Tổ chức quán triệt chưa sâu sắc, thi hành chính sách, pháp luật đất đai chưa nghiêm. Trong công tác quản lý nhà nước về đất đai, chưa làm rõ các quyền định đoạt cụ thể của Nhà nước với vai trò là đại diện chủ sở hữu, thiếu cơ chế thực hiện quyền định đoạt, cơ chế giám sát các địa phương thực hiện quyền định đoạt được phân cấp; chưa giải quyết thỏa đáng lợi ích giữa Nhà nước, nhà đầu tư và người sử dụng đất. 

Nhiệm vụ quản lý nhà nước về đất đai còn phân tán, chồng chéo; chưa quan tâm đầu tư cho ngành quản lý đất đai; cơ sở dữ liệu đất đai đầu tư xây dựng chưa hiệu quả. Hệ thống các văn bản pháp luật ban hành nhiều nhưng chồng chéo, mâu thuẫn, chất lượng thấp, việc tổ chức thực hiện còn nhiều yếu kém. Quy hoạch sử dụng đất còn nặng tính hình thức, chưa gắn kết với các quy hoạch chuyên ngành; thiếu tính kết nối vùng, liên tỉnh và công tác quản lý, thực hiện quy hoạch còn yếu kém. Công tác thanh tra, kiểm tra chưa thực hiện thường xuyên, chưa phát hiện, ngăn chặn kịp thời và việc xử lý sau thanh tra, kiểm tra và giám sát chưa kiên quyết, chế tài xử lý chưa đủ tính răn đe, ngăn ngừa các hành vi vi phạm. 

Tình hình tranh chấp, khiếu nại, tố cáo liên quan đến đất đai trên phạm vi cả nước vẫn diễn biến phức tạp(6), tiềm ẩn nguy cơ bất ổn định về xã hội ở nhiều địa phương. Việc giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai chưa đáp ứng được yêu cầu; công tác xét xử, giải quyết các tranh chấp, khiếu kiện về đất đai của tòa án các cấp còn nhiều hạn chế, có nhiều vụ việc phải giải quyết qua nhiều cấp, kéo dài, nhiều bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng chưa được thi hành. Nguồn lực đất đai chưa được phát huy đầy đủ để trở thành nội lực quan trọng phục vụ phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Việc quản lý, sử dụng đất đai còn lãng phí, hiệu quả thấp, việc sử dụng đất của các nông, lâm trường quốc doanh còn lãng phí nghiêm trọng, xử lý thiếu kiên quyết, chưa triệt để; việc chuyển mục đích sử dụng đất nông nghiệp, đặc biệt là đất trồng lúa sang mục đích phi nông nghiệp chưa được kiểm soát chặt chẽ; đất bãi bồi ven sông, ven biển, đất có mặt nước ven biển quản lý, khai thác kém hiệu quả. Đất dành cho công ích, nhà ở xã hội tỷ lệ thấp; đất dành cho giao thông, xử lý rác thải, công trình văn hóa, giáo dục, y tế, thể dục - thể thao, cây xanh môi trường,... chưa đáp ứng yêu cầu; quản lý, sử dụng đất công (đất cơ quan nhà nước, đơn vị sự nghiệp), đất khu kinh tế, khu công nghiệp còn lãng phí, tỷ lệ lấp đầy thấp; việc sắp xếp bố trí lại các khu đất nghĩa trang chưa được quan tâm; đất khai thác khoáng sản sử dụng không đúng quy định của pháp luật. 

Thị trường bất động sản, trong đó có quyền sử dụng đất, chưa ổn định, thiếu lành mạnh, giao dịch “ngầm” vẫn là phổ biến. Chính sách quản lý đầu tư kinh doanh bất động sản còn nhiều sơ hở, tình trạng đầu cơ, đẩy giá đất tăng cao tác động lớn đến bất ổn định kinh tế vĩ mô. Chính sách thuế chưa thực hiện được vai trò điều tiết thị trường; một số sắc thuế chậm ban hành hoặc thực hiện chưa tốt. Chính sách tài chính đất đai chưa đáp ứng yêu cầu đổi mới, vẫn còn nhiều trường hợp Nhà nước giao đất không thu tiền nhưng việc sử dụng lãng phí, thất thoát, sai phạm. Việc thực hiện chính sách bồi thường, hỗ trợ và tái định cư chưa đúng quy định, quy trình, bảo đảm minh bạch, nhất là việc bố trí tái định cư cho đồng bào dân tộc thiểu số, hỗ trợ giải quyết việc làm cho người thuộc diện có đất nông nghiệp bị thu hồi.

Nguyên nhân của những hạn chế, yếu kém

Hạn chế, yếu kém nêu trên có nguyên nhân khách quan là đất đai có nguồn gốc xã hội rất phức tạp, chính sách đất đai thay đổi qua nhiều thời kỳ; chính sách, pháp luật về đất đai đổi mới theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là vấn đề mới còn thiếu kinh nghiệm, nhưng chủ yếu là do: 

Tiếp tục thực hiện giao đất, cho thuê đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân có thời hạn theo hướng kéo dài hơn quy định hiện hành để khuyến khích nông dân gắn bó hơn với đất đai và yên tâm đầu tư sản xuất; đồng thời mở rộng hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp phù hợp với điều kiện cụ thể từng vùng, để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tích tụ, tập trung đất đai, từng bước hình thành những vùng sản xuất hàng hóa lớn trong nông nghiệp.
- Vai trò và trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp chưa được phát huy đầy đủ trong việc lãnh đạo, chỉ đạo đưa Nghị quyết vào cuộc sống. Nhận thức về quan điểm, định hướng chính sách, pháp luật về đất đai chưa đầy đủ, còn khác nhau, chưa thông suốt ở các cấp, ngành kể cả Trung ương và địa phương. Một bộ phận cán bộ, công chức, đảng viên hiểu sai và làm chưa đúng chủ trương, chính sách, pháp luật đất đai của Đảng và Nhà nước; thiếu gương mẫu chấp hành pháp luật về đất đai, yếu kém về phẩm chất chính trị, năng lực chuyên môn, xa rời lợi ích của nhân dân; lợi dụng kẽ hở của chính sách, pháp luật, lợi dụng chức vụ, quyền hạn để trục lợi, tham nhũng. 

- Văn bản chính sách, pháp luật về đất đai ban hành nhiều nhưng thiếu đồng bộ, nhiều nội dung thiếu rõ ràng, khó hiểu, chồng chéo, mâu thuẫn, xung đột lẫn nhau giữa luật về đất đai với các luật khác. Chế tài xử lý vi phạm pháp luật về đất đai thiếu và hiệu quả thấp, chưa đủ răn đe, ngăn chặn các vi phạm. Thủ tục hành chính vẫn còn rườm rà, thời gian giải quyết kéo dài; một số địa phương còn đặt thêm thủ tục, giấy tờ; không cung cấp đầy đủ, kịp thời thông tin cho người dân và doanh nghiệp; sự phối hợp giữa các cơ quan có liên quan trong việc thực hiện các thủ tục hành chính về đất đai chưa tốt. Việc phân cấp thẩm quyền quyết định thu hồi đất, giao đất chưa gắn với tăng cường năng lực quản lý, kiểm tra, giám sát việc thực hiện. Tổ chức bộ máy, đội ngũ cán bộ, công chức chưa đáp ứng yêu cầu thực hiện nhiệm vụ. 

- Việc tuyên truyền, giáo dục chính sách, pháp luật về đất đai chưa hiệu quả, người dân nói chung, nhất là đồng bào dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng xa chưa hiểu rõ và đồng tình nên dẫn đến việc chấp hành chính sách, pháp luật về đất đai chưa trở thành tự giác và còn nhiều vi phạm.

- Công tác nghiên cứu, tổng kết thực tiễn làm rõ cơ sở khoa học, lý luận về quản lý đất đai trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa chưa được các cấp, ngành chú trọng đúng mức. Một số vấn đề mới nảy sinh trong thực tiễn chậm được tổng kết hoặc chưa được phân tích làm rõ, thiếu quy định về thế chấp tài sản gắn liền với quyền sử dụng đất tại ngân hàng ở nước ngoài, làm hạn chế việc huy động vốn cho các dự án đầu tư.

Giải pháp tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai

Tiếp tục quán triệt sâu sắc những quan điểm đã nêu trong Nghị quyết và khẳng định: đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý. Quyền sử dụng đất là một loại tài sản và hàng hóa đặc biệt, nhưng không phải là quyền sở hữu. Nhà nước không thừa nhận việc đòi lại đất đã được Nhà nước giao cho người khác sử dụng trong quá trình thực hiện các chính sách đất đai. Không đặt vấn đề điều chỉnh lại đất nông nghiệp đã giao cho hộ gia đình và cá nhân. Để tiếp tục đổi mới chính sách, pháp luật về đất đai, cần thực hiện có hiệu quả một số giải pháp sau:

- Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung Luật Đất đai và sớm hoàn thiện chính sách pháp luật về đất đai để khắc phục những yếu kém, khuyết điểm còn tồn tại hiện nay, đáp ứng yêu cầu phân bổ hợp lý, sử dụng đất đai đúng mục đích, tiết kiệm và có hiệu quả, bảo đảm lợi ích trước mắt và lâu dài, bảo vệ môi trường sinh thái. Nâng cao chất lượng và bảo vệ quỹ đất nông nghiệp, bảo đảm an ninh lương thực quốc gia, giữ vững ổn định chính trị - xã hội và phát triển bền vững. 

Quy định rõ ràng, cụ thể hơn các quyền của đại diện chủ sở hữu và quyền thống nhất quản lý của Nhà nước, đặc biệt là trong việc quyết định quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất; chuyển mục đích sử dụng và quy định thời hạn sử dụng đất; quyết định giá đất; quyết định chính sách điều tiết phần giá trị tăng thêm từ đất mà không phải do người sử dụng đất tạo ra; trao quyền sử dụng đất và thu hồi đất để sử dụng vào các mục đích quốc phòng, an ninh, phục vụ lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và các dự án phát triển kinh tế - xã hội theo quy định của pháp luật; tái định cư, tổ chức lại sản xuất và bảo đảm đời sống của nhân dân ở khu vực thu hồi đất. 

Tiếp tục thực hiện chính sách giao đất, công nhận quyền sử dụng đất phi nông nghiệp cho cộng đồng dân cư thuộc đồng bào dân tộc thiểu số; chính sách miễn tiền sử dụng đất khi công nhận quyền sử dụng đất lần đầu trong hạn mức đối với hộ gia đình là đồng bào dân tộc thiểu số tại các xã đặc biệt khó khăn, miền núi; miễn tiền sử dụng đất khi công nhận quyền sử dụng đất lần đầu hoặc chuyển mục đích sử dụng lần đầu từ đất không phải là đất ở sang đất ở cho hộ gia đình đồng bào dân tộc thiểu số ở các làng, bản, ấp nằm giáp biên giới; tiếp tục tạo quỹ đất để giải quyết nhu cầu đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số thông qua việc rà soát quỹ đất có khả năng khai hoang, phục hóa trên địa bàn từng xã; rà soát quỹ đất sử dụng không hiệu quả của các nông, lâm trường, ban quản lý rừng và giao cho địa phương; hỗ trợ kinh phí để nhận chuyển nhượng đất ở, đất sản xuất.
Quy định rõ quyền và nghĩa vụ của người sử dụng đất. Người sử dụng đất được Nhà nước giao đất, cho thuê đất, công nhận quyền sử dụng đất để sử dụng ổn định lâu dài hoặc có thời hạn; được quyền chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, tặng cho, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn theo quy định của pháp luật và được bồi thường khi Nhà nước thu hồi đất, tùy theo từng loại đất và nguồn gốc sử dụng đất. Đồng thời, người sử dụng đất có nghĩa vụ phải chấp hành các chính sách, pháp luật về đất đai; đăng ký quyền sử dụng đất; sử dụng đất đúng mục đích; tuân thủ quy hoạch và chấp hành quyết định thu hồi đất của Nhà nước. Tiếp tục thực hiện giao đất, cho thuê đất nông nghiệp cho hộ gia đình, cá nhân có thời hạn theo hướng kéo dài hơn quy định hiện hành để khuyến khích nông dân gắn bó hơn với đất đai và yên tâm đầu tư sản xuất; đồng thời, mở rộng hạn mức nhận chuyển quyền sử dụng đất nông nghiệp phù hợp với điều kiện cụ thể từng vùng, để tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình tích tụ, tập trung đất đai, từng bước hình thành những vùng sản xuất hàng hóa lớn trong nông nghiệp. Tiếp tục thực hiện chính sách giao đất, công nhận quyền sử dụng đất phi nông nghiệp cho cộng đồng dân cư thuộc đồng bào dân tộc thiểu số; chính sách miễn tiền sử dụng đất khi công nhận quyền sử dụng đất lần đầu trong hạn mức đối với hộ gia đình là đồng bào dân tộc thiểu số tại các xã đặc biệt khó khăn, miền núi; miễn tiền sử dụng đất khi công nhận quyền sử dụng đất lần đầu hoặc chuyển mục đích sử dụng lần đầu từ đất không phải là đất ở sang đất ở cho hộ gia đình đồng bào dân tộc thiểu số ở các làng, bản, ấp nằm giáp biên giới; tiếp tục tạo quỹ đất để giải quyết nhu cầu đất ở, đất sản xuất cho đồng bào dân tộc thiểu số thông qua việc rà soát quỹ đất có khả năng khai hoang, phục hóa trên địa bàn từng xã; rà soát quỹ đất sử dụng không hiệu quả của các nông, lâm trường, ban quản lý rừng và giao cho địa phương; hỗ trợ kinh phí để nhận chuyển nhượng đất ở, đất sản xuất. 

- Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính và nâng cao năng lực quản lý nhà nước về đất đai. Phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các bộ, ngành, địa phương, bảo đảm quản lý thống nhất, hiệu lực, hiệu quả và không chồng chéo. Rà soát, sửa đổi thẩm quyền thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất, cho phép chuyển mục đích sử dụng đất, cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất theo hướng vừa bảo đảm quyền quản lý thống nhất của Trung ương, vừa phát huy quyền chủ động của địa phương. Nhà nước chủ động thu hồi đất theo quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt và công bố công khai để sử dụng đất vào mục đích quốc phòng, an ninh, lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng, thực hiện các dự án đầu tư phát triển kinh tế - xã hội. Tổ chức phát triển quỹ đất thực hiện việc bồi thường, hỗ trợ, tái định cư để tạo quỹ đất “sạch”, sau đó giao cho các dự án, riêng các dự án đầu tư phát triển kinh tế (mọi thành phần kinh tế) chỉ được giao đất khi đã tham gia đấu giá quyền sử dụng đất. 

- Quan tâm đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao trình độ, năng lực cán bộ, công chức ngành quản lý đất đai. Ưu tiên đầu tư xây dựng cơ sở dữ liệu, hạ tầng thông tin theo hướng hiện đại, phục vụ đa mục tiêu; chuyển dần sang giao dịch điện tử trong lĩnh vực đất đai. Tiếp tục đơn giản thủ tục hành chính, vừa bảo đảm yêu cầu quản lý chặt chẽ của Nhà nước, vừa thuận tiện cho người dân và doanh nghiệp. 

- Nâng cao hiệu lực, hiệu quả giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai. Cơ quan có thẩm quyền đề cao trách nhiệm, tập trung giải quyết kịp thời, dứt điểm các tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai theo đúng quy định của pháp luật về khiếu nại, tố cáo, tố tụng hành chính, tố tụng dân sự; công bố công khai kết quả giải quyết. Tăng cường công tác tuyên truyền, hướng dẫn nhân dân thực hiện quyền khiếu nại, khiếu kiện theo quy định của pháp luật. Củng cố, kiện toàn hệ thống thanh tra đất đai, tòa án các cấp đáp ứng yêu cầu thực thi nhiệm vụ. Quan tâm đào tạo, nâng cao trình độ cho đội ngũ thanh tra viên, cán bộ xét xử, giải quyết tranh chấp, khiếu nại, tố cáo về đất đai./.

--------------------------------------

(1) Trên phạm vi cả nước đã hỗ trợ đất ở cho 82%, đất sản xuất cho 48% số hộ thuộc đối tượng đủ điều kiện hỗ trợ

(2) Luật Kinh doanh bất động sản, Luật Thuế các loại, Luật Khiếu nại, Luật Tố tụng hành chính và trên 20 luật khác có nội dung điều chỉnh liên quan đến đất đai. Chính phủ ban hành 20 nghị định hướng dẫn thi hành Luật Đất đai; Thủ tướng Chính phủ ban hành 12 chỉ thị và 20 quyết định; Bộ Tài nguyên và Môi trường, các bộ, ngành ban hành hơn 200 văn bản

(3) Lập quy hoạch đến năm 2010 như sau: Quy hoạch cả nước, tỉnh, thành phố; 78% cấp huyện; 68% cấp xã

(4) Cấp giấy chứng nhận đến năm 2011: Đất sản xuất nông nghiệp đạt 85% diện tích; đất lâm nghiệp đạt 86,3 %; đất ở nông thôn: đạt 82,1%; đất ở đô thị: đạt 63,5 %; đất cơ sở tôn giáo: đạt 81,6 %

(5) Bộ Tài nguyên và Môi trường năm 2005 đã tiếp nhận 10.137 đơn thư, đến năm 2011 giảm còn 5.298 đơn thư. Tòa án các cấp đã thụ lý giải quyết theo thủ tục sơ thẩm 307.912 vụ việc, trong đó vụ việc tranh chấp liên quan đến đất đai chiếm 22,70%

(6) Chiếm gần 70% tổng số vụ khiếu nại, tố cáo