Đề án phát triển văn hóa nông thôn
TCCS - Lời Bộ Biên tập: Phát triển văn hóa nông thôn gắn liền với việc phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới, lấy phương châm phát huy vai trò chủ động của cộng đồng dân cư địa phương là chính. Một trong những nội dung chủ yếu của việc xây dựng nông thôn văn minh, hiện đại là phải bảo tồn, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc.
Hỏi: Xin Tạp chí cho biết các nội dung chính của Đề án Phát triển văn hóa nông thôn đến năm 2015, định hướng đến năm 2020?
Đáp: Ngày 5-1-2010, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số 22/QĐ- TTg phê duyệt Đề án “Phát triển văn hóa nông thôn đến năm 2015, định hướng đến năm 2020” với các nội dung chính sau:
- Gắn phát triển văn hóa nông thôn với phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn.
- Phát triển văn hóa nông thôn trên cơ sở kế thừa những kết quả, thành tựu đã đạt được trong công tác xây dựng đời sống văn hóa cơ sở ở nông thôn; việc xây dựng nông thôn văn minh, hiện đại phải bảo tồn, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc, phù hợp từng vùng, miền, từng dân tộc; đồng thời cụ thể hóa thực hiện Bộ tiêu chí quốc gia về xây dựng nông thôn mới quy định tại Quyết định số 491/QĐ - TTg, ngày 16-4-2009, của Thủ tướng Chính phủ.
- Thực hiện phát triển văn hóa nông thôn theo phương châm phát huy vai trò chủ động của cộng đồng dân cư địa phương là chính, Nhà nước đóng vai trò hướng dẫn và hỗ trợ. Đồng thời, có cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư, thu hút các nguồn lực xã hội hóa, huy động đóng góp của nhân dân để phát triển văn hóa nông thôn.
Đến năm 2015, đối với vùng miền núi, hải đảo, biên giới: 30% số người dân ở nông thôn tham gia thường xuyên vào các hoạt động văn hóa, thể thao. Trong đó, 15% số dân nông thôn luyện tập thể dục, thể thao thường xuyên; 50% số nhà văn hóa khu thể thao xã và 50% số nhà văn hóa, khu thể thao thôn đạt chuẩn theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch; 60% số gia đình giữ vững và phát huy danh hiệu “Gia đình văn hóa”, trong đó 5% số gia đình văn hóa ở nông thôn làm giàu từ sản xuất nông nghiệp hàng hóa; 50% số làng (thôn, ấp, bản) giữ vững và phát huy danh hiệu “Làng văn hóa”, trong đó 15% số làng (thôn, ấp, bản) văn hóa đạt chuẩn cơ sở vật chất, hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn mới; 80% số cán bộ văn hóa, thể thao ở nông thôn được đào tạo, bồi dưỡng, tập huấn về nghiệp vụ...
Đề án nêu rõ, đến năm 2020, tiếp tục củng cố và nâng cao tỷ lệ các chỉ tiêu đạt được trong giai đoạn từ năm 2010 đến năm 2015. Phấn đấu đạt được các tiêu chí về xây dựng văn hóa nông thôn mới cấp xã, trong đó 100% thôn có nhà văn hóa và khu thể thao thôn đạt quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch và 70% số thôn bản trở lên đạt tiêu chuẩn làng văn hóa theo quy định của Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch.
Nâng cao nhận thức của người dân về văn hóa gia đình, tiêu chuẩn công nhận danh hiệu gia đình văn hóa, ý thức tự nguyện, tự giác của các gia đình trong việc xây dựng, giữ vững và phát huy danh hiệu “Gia đình văn hóa”; phổ biến nhân rộng mô hình gia đình văn hóa ở nông thôn làm giàu từ sản xuất nông nghiệp hàng hóa và dịch vụ nông thôn.
Xây dựng gia đình văn hóa điển hình, mẫu mực ở nông thôn: hòa thuận, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc, kỷ cương, nền nếp, có đời sống kinh tế ổn định và phát triển, kế thừa và phát huy các giá trị truyền thống tốt đẹp của gia đình Việt Nam, tiếp thu có chọn lọc các giá trị tiên tiến của gia đình trong xã hội phát triển, có tinh thần tương thân, tương ái, tính tự quản, dân chủ và năng lực làm chủ trong sinh hoạt cộng đồng.
Nâng cao nhận thức của người dân về ý nghĩa văn hóa làng (thôn, ấp, bản), tiêu chuẩn công nhận làng văn hóa, ý thức và vai trò tự quản của các cộng đồng dân cư trong việc xây dựng, giữ vững và phát huy danh hiệu “Làng văn hóa”; phổ biến nhân rộng mô hình làng văn hóa chuyển đổi cơ cấu kinh tế, phát triển ngành nghề phụ; huy động được nội lực của người dân nông thôn xây dựng cơ sở vật chất, hạ tầng kinh tế - xã hội nông thôn mới.
Xây dựng làng (thôn, ấp, bản) văn hóa bền vững, thực sự là những điểm sáng về văn hóa ở nông thôn. Thực hiện tốt nếp sống văn minh trong việc cưới, việc tang và lễ hội; bài trừ tệ nạn xã hội, mê tín dị đoan; nâng cao mức hưởng thụ về văn hóa, thu hút người dân nông thôn tham gia vào các hoạt động văn hóa, thể thao trên địa bàn; xây dựng cộng đồng nông thôn ổn định về chính trị, dân chủ, hòa thuận, nhân ái giàu bản sắc dân tộc, có môi trường xanh - sạch - đẹp - an toàn.
Hỏi: Bộ Tiêu chí quốc gia về nông thôn mới bao gồm các tiêu chí và nhóm cụ thể nào?
Đáp: Thủ tướng Chính phủ vừa ký Quyết định số 491/QĐ-TTg, ban hành Bộ Tiêu chí quốc gia về nông thôn mới bao gồm 19 tiêu chí và được chia thành 5 nhóm tiêu chí cụ thể: về quy hoạch, về hạ tầng kinh tế - xã hội, về kinh tế và tổ chức sản xuất, về văn hóa - xã hội - môi trường và về hệ thống chính trị.
Theo đó, Bộ Tiêu chí đưa ra chỉ tiêu chung cả nước và các chỉ tiêu cụ thể theo từng vùng: Trung du miền núi phía Bắc, Đồng bằng sông Hồng, Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ, Tây Nguyên , Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long phù hợp với đặc điểm, điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của mỗi vùng.
19 tiêu chí để xây dựng mô hình nông thôn mới bao gồm: Quy hoạch và thực hiện quy hoạch, giao thông, thủy lợi, điện, trường học, cơ sở vật chất văn hóa, chợ nông thôn, bưu điện, nhà ở dân cư, thu nhập bình quân đầu người/năm, tỷ lệ hộ nghèo, cơ cấu lao động, hình thức tổ chức sản xuất, giáo dục, y tế, văn hóa, môi trường, hệ thống tổ chức chính trị xã hội vững mạnh và an ninh, trật tự xã hội.
Mỗi tiêu chí đều được quy định mức chỉ tiêu cụ thể đối với từng xã để được công nhận đạt xã nông thôn mới.
Cụ thể, về tiêu chí giao thông, 1 xã thuộc đồng bằng sông Hồng và Đông Nam bộ phải đạt 100% đường trục thôn, xóm được cứng hóa đạt chuẩn theo cấp kỹ thuật của Bộ Giao thông vận tải, tiêu chí này đối với xã vùng Bắc Trung Bộ, Duyên hải Nam Trung Bộ và Tây Nguyên là 70%, còn đối với xã vùng Trung du miền núi phía Bắc và Đồng bằng sông Cửu Long chỉ là 50%.
Về hộ nghèo, xã vùng Đồng bằng sông Hồng và Đông Nam Bộ phải đạt tiêu chuẩn tỷ lệ hộ nghèo <3%, Bắc Trung Bộ và Duyên hải Nam Trung Bộ <5%, Tây Nguyên và Đồng bằng sông Cửu Long <7% và Trung du miền núi phía Bắc <10%.
Bộ tiêu chí cũng quy định, tất cả các xã nông thôn mới đều phải có hệ thống thủy lợi cơ bản đáp ứng yêu cầu sản xuất và dân sinh; có nhà văn hóa và khu thể thao xã đạt chuẩn của Bộ Văn hóa - Thể thao và Du lịch; có điểm phục vụ bưu chính viễn thông, có In-tơ-nét đến thôn; có tổ hợp tác hoặc hợp tác xã hoạt động có hiệu quả và không có nhà tạm, dột nát...
Để được công nhận là huyện nông thôn mới, phải có 75% số xã trong huyện đạt nông thôn mới. Nếu tỉnh có 80% số huyện nông thôn mới thì sẽ đạt tỉnh nông thôn mới./.
Việt Nam kêu gọi các bên liên quan ngừng bắn ở Li-bi  (24/03/2011)
Trao Giải thưởng 26-3 cho 80 cán bộ Đoàn cơ sở xuất sắc  (24/03/2011)
Nâng cao chất lượng các cơ quan tham mưu và đội ngũ cán bộ làm công tác tham mưu của Ðảng *  (24/03/2011)
- Chủ nghĩa thực dân số trong thời đại số và những vấn đề đặt ra
- Phương hướng, giải pháp nâng cao chất lượng công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới
- Tư tưởng Hồ Chí Minh về phát triển đội ngũ nhà giáo và sự vận dụng của Đảng trong giai đoạn hiện nay
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm