Tiếp tục chương trình làm việc, chiều 30-5, các đại biểu Quốc hội thảo luận ở tổ về dự án Luật quản lý nợ công (sửa đổi) và dự án Luật tố cáo (sửa đổi).

* Làm rõ quy định về phạm vi nợ công

Thảo luận tại tổ, đa số các đại biểu nhất trí với Tờ trình của Chính phủ về dự án Luật quản lý nợ công (sửa đổi). Các đại biểu cho rằng, Luật quản lý nợ công có hiệu lực thi hành từ ngày 01-01-2010 đã xác lập cơ sở pháp lý quan trọng, góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả trong huy động, quản lý, sử dụng nợ công. Tuy nhiên, cùng với những đổi mới trong Hiến pháp năm 2013, thay đổi trong hệ thống pháp luật và quá trình vận hành, phát triển, hội nhập kinh tế quốc tế, nhiều quy định của Luật quản lý nợ công đã bộc lộ một số vấn đề không còn phù hợp, nhiều vấn đề phát sinh trong thực tiễn chưa được điều chỉnh... Vì vậy, các đại biểu tán thành sự cần thiết sửa đổi Luật nhằm khắc phục những hạn chế, bất cập của Luật hiện hành, bảo đảm tính thống nhất, đồng bộ của hệ thống pháp luật. Đặc biệt, việc sửa đổi phải góp phần nâng cao hiệu quả, hiệu lực quản lý, bảo đảm an toàn, đáp ứng yêu cầu quản lý nợ công trong tình hình mới.

Tại phiên làm việc, các đại biểu đã tập trung cho ý kiến một số nội dung về phạm vi điều chỉnh của dự án Luật; nhiệm vụ, quyền hạn, trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong quản lý, sử dụng nợ công; đối tượng và chương trình, dự án được xét cấp bảo lãnh Chính phủ...

Về phạm vi điều chỉnh, dự án Luật quy định, nợ công gồm nợ Chính phủ, nợ được Chính phủ bảo lãnh, nợ chính quyền địa phương. Đa số ý kiến thống nhất với quy định này, theo đó không tính vào nợ công các khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước Việt Nam phát hành để thực hiện chính sách tiền tệ, nợ tự vay tự trả của doanh nghiệp nhà nước, của đơn vị sự nghiệp công lập.

Đại biểu Tô Thị Bích Châu (đoàn Thành phố Hồ Chí Minh) cho rằng, việc doanh nghiệp nhà nước và đơn vị sự nghiệp công lập tự vay, tự trả thuộc quyền tự chủ của doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp nên không tính khoản này vào nợ công là hợp lý. Tuy nhiên, phạm vi nợ công thể hiện trong dự thảo luật đã bỏ qua rủi ro phát sinh từ các đơn vị sử dụng vốn ngân sách ngoài Chính phủ và các quỹ bảo hiểm xã hội, đồng thời còn có sự chưa tương đồng giữa quy định về cách tính nợ công của Việt Nam với chuẩn mực quốc tế. Đại biểu Tô Thị Bích Châu đề nghị cần xây dựng khung thống kê về nợ công ròng thay vì tổng nợ công dựa trên chuẩn mực Việt Nam và phù hợp với quốc tế. Điều này có ý nghĩa quan trọng trong kiểm soát rủi ro nợ công và xây dựng các tiêu chí về nợ công cho Việt Nam dựa trên so sánh tương quan với các nước phát triển tương đương.

Tán thành với việc không đưa nợ tự vay tự trả của doanh nghiệp nhà nước vào phạm vi nợ công song đại biểu Bùi Thị Quỳnh Thơ (đoàn Hà Tĩnh) nêu ý kiến, việc không trả được nợ nước ngoài của doanh nghiệp Nhà nước có thể ảnh hưởng đến hệ số tín nhiệm của quốc gia. Bên cạnh đó, theo thông lệ quốc tế, Ngân hàng Trung ương là độc lập, không nằm trong cơ cấu tổ chức của Chính phủ; tuy nhiên đặc thù ở Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước là cơ quan thuộc Chính phủ. “Vì vậy, cần xem xét và cân nhắc việc không tính vào nợ công các khoản nợ do Ngân hàng Nhà nước phát hành có hợp lý không? Chủ thể đích thực của Ngân hàng Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước là ai? Bởi nếu thuộc khu vực công thì nợ của Ngân hàng Nhà nước và doanh nghiệp nhà nước đương nhiên Nhà nước phải trả”, đại biểu Bùi Thị Quỳnh Thơ nhấn mạnh.

Ngoài ra, theo đại biểu Bùi Thị Quỳnh Thơ, quy định về đối tượng được xét cấp bảo lãnh Chính phủ cũng cần nghiên cứu lại. Theo đó, khoản 4 điều 45 của dự án Luật quy định: “Đối tượng được xét cấp bảo lãnh của Chính phủ là doanh nghiệp có dự án đầu tư, ngân hàng chính sách của Nhà nước thực hiện chương trình tín dụng chính sách được xét cấp bảo lãnh Chính phủ”. Đại biểu Bùi Thị Quỳnh Thơ cho rằng, phạm vi đối tượng được xét bảo lãnh như quy định là quá rộng. Nếu các đối tượng được bảo lãnh không trả được nợ thì Chính phủ phải trả nợ thay theo nguyên tắc của bảo lãnh, điều này mâu thuẫn với các quy định về phạm vi nợ công.

Đồng tình với quan điểm này, đại biểu Đỗ Văn Sinh (đoàn Quảng Trị) nhấn mạnh, đối tượng được xét cấp bảo lãnh Chính phủ chỉ là doanh nghiệp 100% vốn Nhà nước chứ không thể bảo lãnh doanh nghiệp cổ phần hoá, doanh nghiệp tư nhân bởi các doanh nghiệp này phải tự chịu trách nhiệm về hoạt động của mình.

* Nhiều ý kiến khác nhau về hình thức tố cáo

Cũng trong buổi chiều 30-5, các đại biểu thảo luận về dự án Luật Tố cáo (sửa đổi). Nội dung được các đại biểu tập trung thảo luận và cho ý kiến là hình thức tố cáo và tố cáo nặc danh.

Về hình thức tố cáo, đa số ý kiến tán thành với quan điểm của Chính phủ thể hiện trong dự án Luật là chỉ nên quy định hai hình thức tố cáo là bằng đơn và trực tiếp. Đại biểu Mai Sỹ Diến (đoàn Thanh Hóa) cho rằng, trong điều kiện hiện nay, nếu bổ sung thêm các hình thức tố cáo khác như bản fax, email, điện thoại… sẽ rất khó khăn cho việc xác minh giải quyết đơn của các cơ quan Nhà nước. Đồng tình với quan điểm này, đại biểu Nguyễn Nhân Chiến (đoàn Bắc Ninh) nêu rõ, việc tố cáo không nên bổ sung hình thức bằng fax, email, điện thoại… nhằm tránh tình trạng lợi dụng việc tố cáo qua hình thức mới để bôi nhọ, nói xấu, xuyên tạc gây ảnh hưởng xấu đến tổ chức, cá nhân…

Đại biểu Chau Chắc (đoàn An Giang) nhấn mạnh, với việc quy định hình thức tố cáo giới hạn là bằng đơn và trực tiếp sẽ giảm tình trạng tố cáo tràn lan, tố cáo sai sự thật, ảnh hưởng đến uy tín của người bị tố cáo, gây khó khăn cho cơ quan của nhà nước trong việc giải quyết khiếu nại tố cáo.

Trong khi đó, đại biểu Tô Thị Bích Châu (đoàn Thành phố Hồ Chí Minh) lại cho rằng ngoài hai hình thức tố cáo là tố cáo bằng đơn và tố cáo trực tiếp, dự thảo Luật cần quy định bổ sung các hình thức tố cáo khác như tố cáo bằng bản fax, email, điện thoại…. Điều này tạo điều kiện cho người tố cáo thực hiện quyền tố cáo, qua đó kịp thời phát hiện và xử lý đối với các hành vi vi phạm. Theo đại biểu Tô Thị Bích Châu, thời gian qua, Chính phủ đã công bố và đưa vào hoạt động cổng thông tin Chính phủ tiếp nhận và trả lời phản ánh, kiến nghị của người dân. Vì vậy, nếu luật không quy định hình thức tố cáo qua fax, email, điện thoại… thì không phù hợp. Tuy nhiên, cần xem xét, cân nhắc để quy định chặt chẽ, cụ thể, tránh tình trạng gửi không đúng người, đúng cơ quan.

Cũng trong phiên thảo luận tổ về dự án Luật Tố cáo (sửa đổi), các đại biểu cơ bản đồng tình với việc không nên quy định về giải quyết đối với đơn tố cáo nặc danh. Bởi lẽ, tố cáo là quyền của công dân, để thực hiện quyền thì công dân phải nhân danh chính mình tham gia vào quan hệ pháp luật và phải chịu trách nhiệm nếu cố tình tố cáo sai sự thật. Trong điều kiện tình hình hiện nay, nếu quy định tiếp nhận và giải quyết đối với đơn tố cáo nặc danh vào trong dự thảo luật sẽ gây khó khăn cho cơ quan, người có thẩm quyền trong việc xác minh, xử lý thông tin giải quyết tố cáo, gây tốn kém chi phí của nhà nước, dễ xảy ra tình trạng lợi dụng quy định để tố cáo tràn lan, sai sự thật... Bày tỏ đồng tình với quy định này, tuy nhiên, đại biểu Nguyễn Văn Sơn (đoàn Hà Tĩnh) cho rằng, Luật cần quy định rõ trường hợp tuy là đơn tố cáo nặc danh nhưng có gửi kèm theo chứng cứ, nội dung rõ ràng như các tài liệu, vật chứng, ảnh, đoạn băng ghi hình, ghi âm… thì cơ quan, người có thẩm quyền phải có trách nhiệm xác minh, xử lý nhằm tránh bỏ lọt hành vi vi phạm pháp luật.

* Thống nhất đầu mối trả nợ công

Đại biểu Hoàng Văn Cường (Hà Nội) cho biết, theo quy định, việc quản lý nguồn vốn vay được giao cho ba cơ quan là Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam nhưng các cơ quan này chỉ chú trọng đến việc vay vốn chứ chưa tính đến phương án trả nợ và đến nay vẫn chưa có cơ quan nào chịu trách nhiệm cụ thể việc này. Đây chính là bất cập lớn dẫn đến tình trạng nợ công đã gần chạm trần (63,7% GDP). Trong dự thảo Luật quản lý nợ công (sửa đổi), quan điểm của Ủy ban Tài chính Ngân sách của Quốc hội nên tập trung cho một đầu mối là rất khoa học. Một đầu mối nghĩa là một cơ quan đứng ra chịu trách nhiệm đến cùng khoản vốn vay, cơ quan đó cũng quyết định việc đi vay thế nào và đầu tư vào đâu. Cụ thể, nếu vay bảo lãnh để cho vay lại, Ngân hàng Nhà nước phải chịu trách nhiệm; vay về đầu tư công, Bộ Tài chính phải đứng ra làm đầu mối…

Đối với những khoản vay bảo lãnh, cơ quan bảo lãnh phải bảo đảm tránh nhiệm trong việc đứng ra trả nợ. Về khoản này, theo đại biểu Cường, Chính phủ nên giao cho Ngân hàng Nhà nước trách nhiệm trả nợ nếu đơn vị bảo lãnh không trả được chứ không được lấy tiền từ ngân sách để trả nợ công. Với những dự án vay để đầu tư hạ tầng nằm trong chương trình đầu tư công của Chính phủ, Chính phủ sẽ phải trả; Bộ Tài chính cân nhắc xem nguồn thu ngân sách nếu có thể trả được, đồng thời chịu trách nhiệm đứng ra vay, bố trí nguồn thu ngân sách để trả. Như vậy, nguồn vốn vay sẽ đảm bảo hiệu quả và không xảy ra tình trạng khủng hoảng nợ công.

* Theo dõi khoản nợ công để thanh toán

Chia sẻ những giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn vay, đại biểu Trần Hoàng Ngân (Thành phố Hồ Chí Minh) cho hay, Luật quản lý nợ công năm 2016 (sửa đổi) lần này đã đưa vào nhiều điều khoản chi tiết để phù hợp với Luật ngân sách Nhà nước năm 2015, Luật tổ chức chính quyền địa phương, Luật tổ chức Chính phủ và các Luật ban hành khác, trong đó quy định khoản nợ công gồm những khoản nào một cách chặt chẽ. Cụ thể, trong điều khoản của Luật quy định, nợ công gồm có 3 khoản: nợ Chính phủ, nợ Chính phủ bảo lãnh và nợ chính quyền địa phương. Theo đại biểu, thông thường nợ công được tính trên GDP, nếu làm GDP tăng trưởng theo kế hoạch đề ra, nợ công sẽ giảm dần.

Đại biểu Trần Hoàng Ngân cũng nêu rõ: Luật quản lý nợ công (sửa đổi) bàn rất nhiều nội dung, trong đó có đề cập đến nguyên nhân cấu thành nợ công, đó là nợ bảo lãnh của Chính phủ, điều mà trước đây Luật quản lý nợ công rất ít khi bàn đến nên thiếu đi những cơ chế ràng buộc. Nếu không bảo lãnh, nợ công không tăng và hiện bảo lãnh của Chính phủ chiếm tới 18% trong tổng số nợ công. Theo đại biểu, Chính phủ cần nhanh chóng cắt giảm đối đa mức bảo lãnh của mình, giao trách nhiệm tự chủ đó cho chủ doanh nghiệp. Chính phủ chỉ nên bảo lãnh vốn vay của quốc gia, những khoản có tính lan tỏa liên quan đến sự phát triển chung của đất nước. Khoản nợ chính quyền địa phương, tuy chỉ chiếm 1,5% (khoảng 45.000 tỷ đồng) nhưng phải quản lý chặt chẽ, tránh trường hợp ảnh hưởng đến ngân sách của địa phương vốn đã rất eo hẹp.

Để quản lý hiệu quả nguồn vốn vay, theo đại biểu Trần Hoàng Ngân, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc quản lý nợ công, nhất là Bộ Tài chính và Bộ Kế hoạch và Đầu tư, nơi phân bổ và sử dụng hiệu quả nguồn vốn vay để tạo ra nguồn thu cho ngân sách. Để làm tốt điều này, Bộ Tài chính phải là cơ quan theo dõi khoản nợ để thanh toán, nghĩa là tạo ra sự liên kết từ khâu phân bổ để nguồn vốn được đưa vào các dự án hiệu quả, đó là mục tiêu được đặt lên hàng đầu.

“Nợ công tăng nhanh sẽ tạo cầu vốn trên thị trường. Nhu cầu vay của Chính phủ ngày càng tăng khiến cầu vốn tăng, kéo theo lãi suất được nâng cao. Giải quyết nợ công theo hướng kiểm soát chặt chẽ góp phần giảm chi phí xã hội và chi phí lãi vay, nâng cao năng lực cạnh tranh cho doanh nghiệp”, đại biểu Trần Hoàng Ngân khẳng định./.