TCCSĐT - Trong suốt hơn 86 năm lãnh đạo, trong đó có hơn 71 năm cầm quyền, Đảng ta ngày càng nhận thức đầy đủ hơn về dân chủ và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng ta luôn khẳng định dân chủ là mục tiêu, động lực quan trọng để phát triển xã hội.

Dân chủ và thực hành dân chủ ở nước ta hiện nay

Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn khẳng định “Dân là chủ”, “Dân làm chủ”, “Dân là gốc” và luôn khẳng định phải làm cho dân được hưởng quyền làm chủ trên thực tế. Để làm được điều đó, Nhà nước phải tạo mọi điều kiện (cơ chế, chính sách, pháp luật, vật chất) để nhân dân được làm chủ; mặt khác, nhân dân phải có năng lực làm chủ (về trình độ, nhận thức, bản lĩnh) để thực hành dân chủ. Có như vậy, nhân dân mới làm chủ thực sự, tránh được tình trạng dân chủ hình thức.

Đảng ta cũng nhận thức ngày càng đầy đủ hơn về tất yếu khách quan phải đẩy mạnh phát triển các hình thức và phương thức thực hành dân chủ. Để các quyền làm chủ đó được thực hành trong cuộc sống, nhất thiết phải thể chế nó trong các điều hiến định của Hiến pháp, trong các quy định của hệ thống văn bản quy phạm pháp luật, được thực hành bằng những chế định tương ứng của Nhà nước và các giá trị xã hội. Đảng và Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách, pháp luật nhằm phát huy dân chủ; quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của nhân dân được xác định ngày càng đầy đủ hơn. Đại hội VI của Đảng đã tạo bước ngoặt lịch sử trong việc phát huy dân chủ để tạo ra động lực mạnh mẽ cho sự phát triển đất nước. Bài học “lấy dân làm gốc” là sự thể hiện cô đọng và sâu sắc nhất tư tưởng dân chủ của Đảng. Đại hội VIII của Đảng (năm 1996), khẳng định: “Mục tiêu chủ yếu của đổi mới hệ thống chính trị là nhằm thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Bài học lớn là dân chủ nhất thiết phải đi đôi với kỷ luật, kỷ cương”(1). Các đại hội IX, X, XI của Đảng và Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011 tiếp tục khẳng định dân chủ là mục tiêu, động lực quan trọng để phát triển xã hội. “Quyền làm chủ của nhân dân được phát huy ngày càng tốt hơn trong các lĩnh vực của đời sống xã hội bằng dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp. Nhiều cấp ủy, chính quyền đã lắng nghe, tăng cường tiếp xúc, đối thoại với nhân dân, tôn trọng các ý kiến khác nhau”(2). Coi trọng, chăm lo hạnh phúc và sự phát triển toàn diện, bảo vệ và bảo đảm quyền và lợi ích chính đáng, hợp pháp, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Nhà nước ta ký kết.

Tuy nhiên, nhận thức về xây dựng dân chủ và phát huy dân chủ trong một bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn hạn chế. Nhận thức và nghiên cứu lý luận về bản chất của dân chủ và xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa chưa đầy đủ và hệ thống; chưa lý giải và làm sáng tỏ nhiều vấn đề do thực tiễn đặt ra; chưa đạt được kết quả có tính đột phá cho quá trình đổi mới, xây dựng và phát triển dân chủ. Trên thực tế còn có những nhận thức phiến diện, không đầy đủ, không đúng về dân chủ, chưa coi dân chủ là những giá trị to lớn; chưa nhận thức rõ và đầy đủ rằng, dân chủ là những giá trị và lợi ích cơ bản về quyền con người, quyền công dân được thể chế hóa bằng thể chế và các thiết chế nhà nước và xã hội, gắn liền với trình độ phát triển của xã hội; chưa thấy rõ đó là những giá trị và lợi ích được tạo lập trên thực tế bởi mối quan hệ bình đẳng và cộng đồng trách nhiệm giữa Nhà nước và công dân trên mọi lĩnh vực của đời sống xã hội(3). Có nơi, có lúc còn xem nhẹ việc thực hành dân chủ, coi nhẹ vai trò làm chủ của nhân dân, chưa coi trọng đúng mức các hình thức thực hành dân chủ; còn có tình trạng tách rời, thậm chí đối lập giữa dân chủ và kỷ cương pháp luật trong xây dựng và thực hành dân chủ. Quyền làm chủ của nhân dân ở nhiều nơi, nhiều lĩnh vực còn bị vi phạm. Có lúc, có nơi, việc thực hành dân chủ còn hạn chế hoặc mang tính hình thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ để chia rẽ, làm mất đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.

Hiện nay, không ít nơi còn xảy ra tình trạng mất dân chủ, xa rời nguyên tắc tổ chức của Đảng. Điều này tất yếu sẽ dẫn đến sự độc đoán, chuyên quyền, bè phái, cục bộ ngành, địa phương hoặc dân chủ quá trớn dẫn đến vô nguyên tắc, vô tổ chức, vô chính phủ. Có những người lãnh đạo thiếu sâu sát thực tế, xa cách cán bộ, thiếu lắng nghe ý kiến của quần chúng và cấp dưới, đi tới những nhận định chủ quan, những chủ trương, quyết định chưa phù hợp với đòi hỏi khách quan của cuộc sống. Dân chủ có khi trở thành hình thức, hợp thức hóa cho những quyết định quan liêu, chủ quan của cá nhân người thủ trưởng. Có những cán bộ lãnh đạo nặng tính quan liêu, gia trưởng, độc đoán, đặt mình lên trên tập thể, không chịu sự kiểm soát của tổ chức. Việc bầu cử, ứng cử, đề cử các cấp ủy, chính quyền nhiều trường hợp còn mang tính dân chủ hình thức. Nhiều đảng viên và cán bộ cấp dưới không dám thẳng thắn sử dụng quyền làm chủ, sợ bị thành kiến, không được lên chức, lên lương, ảnh hưởng đến lợi ích của cá nhân mình, thậm chí có thái độ xu nịnh, cơ hội. Tình cảm đồng chí, đồng đội giữa những người cùng chung lý tưởng cách mạng bị phai nhạt; mối quan hệ đồng chí bị hành chính hóa, chỉ còn lại là quan hệ lãnh đạo và bị lãnh đạo; sự cách biệt trong mức sống, lối sống, cách nghĩ giữa người có chức có quyền và người dưới quyền ngày càng rõ nét. Ở một số hội nghị còn mang tính dân chủ hình thức, xuôi chiều, những ý kiến khác nhau không được thẳng thắn đưa ra thảo luận, tranh luận và kết luận rõ ràng. Có khi do nể nang, ngại va chạm, sợ bị thành kiến truy chụp, cũng có khi do các đại biểu không có thông tin đầy đủ, không được tạo điều kiện nghiên cứu tìm hiểu vấn đề thấu đáo. Thảo luận xuôi chiều chưa hẳn là đoàn kết nhất trí. Tôn trọng những ý kiến khác nhau, cùng thảo luận một cách dân chủ thì mới có thể tìm ra chân lý và đi tới nhất trí thật sự. Có nơi chưa tạo điều kiện đầy đủ cho các cấp ủy viên, cho đảng viên, cán bộ nắm được thông tin, được nghiên cứu thấu đáo vấn đề cho nên việc lấy ý kiến, biểu quyết nhiều khi chỉ là chiếu lệ, không chuẩn xác.

Mở rộng dân chủ nội bộ trong Đảng cầm quyền là hạt nhân, là tấm gương cho việc thực hiện dân chủ ngoài xã hội. Đương nhiên, trên nền tảng phát huy quyền làm chủ của nhân dân, mở rộng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa thì dân chủ nội bộ Đảng càng thêm sức sống, phản ánh được hoạt động thực tiễn và tập trung trí tuệ của dân tộc, nhờ đó Đảng càng được củng cố vững mạnh. Thời đại ngày nay, toàn cầu hóa và kinh tế tri thức, điều kiện tiếp cận thông tin rộng rãi và nhanh chóng, trình độ kiến thức của cán bộ, đảng viên cùng với mặt bằng dân trí của xã hội nâng cao thì nhu cầu mở rộng dân chủ ngày càng tăng.

Vấn đề dân chủ và thực hành dân chủ trong Văn kiện Đại hội XII của Đảng

Đại hội XI của Đảng chỉ rõ: “Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của xã hội ta, vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật, được pháp luật bảo đảm … Nhân dân thực hiện quyền làm chủ thông qua hoạt động của Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và các hình thức dân chủ trực tiếp, dân chủ đại diện”(4).

Kế thừa những nội dung của Đại hội XI, Đại hội XII có những điểm mới về phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm thực hành quyền làm chủ của nhân dân.

Một là, Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh, cần thể chế hóa và nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ, khẳng định: “Tiếp tục phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải xuất phát từ nguyện vọng, quyền và lợi ích chính đáng của nhân dân, được nhân dân tham gia ý kiến… Thể chế hóa và nâng cao chất lượng các hình thức thực hiện dân chủ trực tiếp và dân chủ đại diện”(5). Coi trọng việc thực hiện quyền con người, quyền công dân và đạo đức xã hội, Đại hội XII đặt ra yêu cầu: “Thực hiện quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, theo tinh thần của Hiến pháp năm 2013; gắn quyền với trách nhiệm, nghĩa vụ, đề cao đạo đức xã hội. Tiếp tục thực hiện tốt dân chủ ở cơ sở; hoàn thiện hệ thống pháp luật, tôn trọng, bảo đảm, bảo vệ quyền con người, quyền và nghĩa vụ công dân”(6).

Hai là, để dân chủ xã hội chủ nghĩa thực sự thực hiện được trên thực tế thì: “Dân chủ phải được thực hiện đầy đủ, nghiêm túc trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội”(7). Đây thực sự là sự phát triển tư duy của Đảng ta một cách toàn diện về phát huy dân chủ và thực hành dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đại hội XII còn nhấn mạnh, khi xây dựng các quyết sách cần “Bảo đảm để nhân dân tham gia ở tất cả các khâu của quá trình đưa ra những quyết định liên quan đến lợi ích, cuộc sống của nhân dân, từ nêu sáng kiến, tham gia thảo luận, tranh luận đến giám sát quá trình thực hiện. Thực hiện xây dựng những văn bản pháp luật liên quan trực tiếp đến quyền làm chủ của nhân dân”(8).

Ba là, nhấn mạnh nhiệm vụ cần thể chế hóa và thực hiện tốt phương châm “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, Đại hội XII của Đảng còn khẳng định: “Để thực hiện dân chủ trong xã hội, trước hết phải bảo đảm phát huy dân chủ trong Đảng là hạt nhân để phát huy đầy đủ dân chủ trong xã hội”(9).

Bốn là, tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, phát huy quyền làm chủ của nhân dân và các tổ chức chính trị - xã hội, Đại hội XII nhấn mạnh: “Đẩy mạnh dân chủ hóa xã hội để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, vai trò chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân. Tổ chức thực hiện tốt Quy chế giám sát và phản biện xã hội của Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội; Quy định về việc của Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và nhân dân góp ý xây dựng Đảng, xây dựng chính quyền; Quy định về giám sát đảng viên là cán bộ thuộc diện Bộ Chính trị, Ban Bí thư quản lý và các quy định, quy chế khác”(10).

Thực hành dân chủ đại diện theo tinh thần Đại hội XII của Đảng

Hiện nay, Đảng, Nhà nước ta đang từng bước xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân. Nguyên tắc quan trọng, có tính xuyên suốt trong quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân là phải bảo đảm để phát huy dân chủ và quyền làm chủ của nhân dân; tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân; nhân dân sử dụng quyền lực nhà nước thông qua các cơ quan đại biểu của mình là Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.

Ở Việt Nam hiện nay, Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp là hình thức chủ yếu của chế độ dân chủ đại diện (Điều 6 và Điều 69 Hiến pháp năm 2013 của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam). Đó là hình thức dân chủ chung nhất, nếu xét từ góc độ cơ chế tổ chức thực hiện quyền lực của nhân dân là chế độ, mà ở đó, việc ra những quyết định chủ yếu thuộc thẩm quyền của hội nghị những người đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân, do nhân dân ủy thác bằng phiếu bầu (các đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân). “Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước bằng dân chủ trực tiếp, bằng dân chủ đại diện thông qua Quốc hội, Hội đồng nhân dân và thông qua các cơ quan khác của Nhà nước” (Điều 6). “Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Điều 69). “Việc bầu cử đại biểu Quốc hội và đại biểu Hội đồng nhân dân được tiến hành theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín” (Điều 7, Hiến pháp năm 2013).

Sự hiến định này cho thấy ở Việt Nam, việc thực hành dân chủ đại diện thông qua Quốc hội - cơ quan đại biểu cao nhất và Hội đồng nhân dân - cơ quan quyền lực cao nhất ở địa phương, đồng thời là cơ quan đại diện cao nhất trong bộ máy nhà nước ta. Đại diện trở thành một thuộc tính của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, xuyên suốt và chi phối vị trí, vai trò, cơ chế hoạt động, cơ cấu đại biểu, hiệu lực đại diện và thể hiện tập trung nhất qua việc thực hiện các chức năng: lập hiến, lập pháp; quyết định những vấn đề quan trọng của đất nước, địa phương và giám sát tối cao đối với hoạt động của các cơ quan nhà nước. Quốc hội là cơ quan duy nhất do cử tri cả nước bầu ra dựa trên các nguyên tắc: phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín. Đây là những quy định bảo đảm cho mỗi người dân tự do bầu cử, lựa chọn những người có đủ đức, đủ tài, xứng đáng làm đại diện cho ý chí của mình. Hội đồng nhân dân là do cử tri của địa phương đó bầu ra, trong phạm vi địa phương đó, đại diện cho các cử tri của địa phương bầu cử ra mình. Các đại biểu Quốc hội không chỉ đại diện cho nhân dân ở đơn vị bầu cử ra mình mà còn đại diện cho nhân dân cả nước. Bởi vậy, đại biểu Quốc hội, Hội đồng nhân dân có trách nhiệm thay mặt nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước, chịu sự giám sát, chịu trách nhiệm trước nhân dân, có thể bị bãi nhiệm bởi nhân dân khi không thực hiện trọng trách chính trị đã được giao phó, “Đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội dồng nhân dân bị cử tri hoặc Quốc hội, Hội đồng nhân dân bãi nhiệm khi không còn xứng đáng với sự tín nhiệm của nhân dân” (khoản 2, Điều 7 Hiến pháp năm 2013).

Đại hội XII của Đảng nhấn mạnh: “Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Quốc hội thực hiện tốt chức năng lập pháp, quyết định các vấn đề quan trọng của đất nước và giám sát tối cao, nhất là đối với việc quản lý, sử dụng các nguồn lực của đất nước… Hoàn thiện cơ chế để nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động của cơ quan dân cử, nhất là hoạt động lập pháp của Quốc hội, đại biểu Quốc hội, cơ chế giám sát, đánh giá đối với người giữ chức vụ do Quốc hội, Hội đồng nhân dân bầu hoặc phê chuẩn. tăng cường hơn nữa sự gắn kết giữa giám sát của Quốc hội với kiểm tra, giám sát của Đảng, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội và giám sát của nhân dân”(11).

Trong thời gian qua, vấn đề thực hành dân chủ và thực hành dân chủ đại diện còn có nhiều quan điểm chưa nhất quán, cho nên cần nghiên cứu về thực hành dân chủ đại diện, nêu cao tính đại diện của Quốc hội, Hội đồng nhân dân trên tinh thần tiếp thu những giá trị dân chủ của nhân loại, đem lại luồng sinh khí mới về dân chủ đại diện cho người dân như: nâng cao hiệu quả hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, các ủy ban của Quốc hội; các ban của Hội đồng nhân dân; nâng cao năng lực của đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân; tính chuyên nghiệp của bộ máy giúp việc Quốc hội, Hội đồng nhân dân...

Cần tránh tư duy “xơ cứng” về hình thức đại diện của Quốc hội, Hội đồng nhân dân như đồng nhất đại diện cơ cấu của Quốc hội, cơ cấu của Hội đồng nhân dân với cơ cấu xã hội; cách hiểu cực đoan là có bao nhiêu dân tộc, tôn giáo, thành phần... thì trong Quốc hội, Hội đồng nhân dân phải có mặt đầy đủ từng ấy dân tộc, tôn giáo, thành phần, để góp tiếng nói đại diện lợi ích trong các quyết định, chính sách của Nhà nước. Điều này sẽ mâu thuẫn với việc nâng cao chất lượng hoạt động đại diện của Quốc hội, Hội đồng nhân dân, mà công việc gốc là nâng cao chất lượng hoạt động của các đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân. Tuy nhiên, cũng không nên vì thế mà thiết kế một Quốc hội, Hội đồng nhân dân với các thành phần đại diện là tầng lớp tri thức, có trình độ học vấn cao đặc biệt là các chuyên gia về luật pháp mà xóa nhòa kết cấu giai cấp, dân tộc, tôn giáo, thành phần dân cư...

Quốc hội là cơ quan đại biểu cao nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất (Điều 69 Hiến pháp năm 2013) nhưng không có nghĩa Quốc hội có toàn quyền, quyền lực không có giới hạn. Trên cơ sở phân định rõ chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội, xác lập rõ hơn nữa mối quan hệ tương hỗ giữa Quốc hội với Chính phủ và các cơ quan tư pháp. Một Quốc hội mạnh là một Quốc hội có các cơ quan thường trực mạnh và các đại biểu Quốc hội đảm đương được đầy đủ vai trò đại diện cao nhất của nhân dân. Vì vậy, cần thường xuyên chăm lo kiện toàn hai trụ cột chính của Quốc hội là các cơ quan của Quốc hội và đại biểu Quốc hội.

Hiến pháp năm 2013 tiếp tục kế thừa các quy định về Hội đồng nhân dân trong Hiến pháp năm 1992. Theo đó, khoản 1 Điều 113 tiếp tục quy định: “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân địa phương, do nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân địa phương và cơ quan nhà nước cấp trên”. Khoản 2 Điều 113 quy định rõ chức năng và nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân địa phương. Hội đồng nhân dân thực hiện 02 loại chức năng là “quyết định” và “giám sát”: Hội đồng nhân dân quyết định các vấn đề của địa phương do luật định; Hội đồng nhân dân giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa phương và việc thực hiện nghị quyết của Hội đồng nhân dân.

Như vậy, Hội đồng nhân dân sẽ quyết định chính sách địa phương về việc thực hiện công vụ địa phương; đồng thời giám sát việc thực hiện các chính sách này. Trong khi đó, đối với các công vụ của Trung ương giao cho chính quyền địa phương thực hiện thì Hội đồng nhân dân có trách nhiệm giám sát việc triển khai công việc này. Cách quy định như trên là phù hợp với những điểm mới trong quy định tại Điều 112 về chức năng, nhiệm vụ của chính quyền địa phương.

Trong điều kiện một Đảng cầm quyền như nước ta, việc đổi mới tư duy, nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Quốc hội, Hội đồng nhân dân là nhân tố quyết định trong việc phát huy vai trò Quốc hội, Hội đồng nhân dân là cơ quan đại diện của nhân dân. Do vậy, đổi mới sự lãnh đạo của Đảng với Quốc hội, Hội đồng nhân dân tập trung vào việc bảo đảm tính định hướng, tính Đảng trong tổ chức và hoạt động của Quốc hội, Hội đồng nhân dân mà không làm thay công việc của Quốc hội, Hội đồng nhân dân. Bảo đảm cho Quốc hội, Hội đồng nhân dân giữ vị trí, vai trò của mình trong bộ máy nhà nước, thực hiện đúng, đủ những chức năng, nhiệm vụ mà nhân dân đã tin tưởng giao phó. Có như vậy, Quốc hội, Hội đồng nhân dân mới thực sự là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân.

Nhân dân là chủ thể quyền lực nhà nước, do đó cần nâng cao nhận thức của mỗi đại biểu Quốc hội, đại biểu Hội đồng nhân dân, gắn trách nhiệm phục vụ, tận tụy và giữ mối liên hệ chặt chẽ với cử tri. Quốc hội, Hội đồng nhân dân phải thực sự là thiết chế để nhân dân tiếp cận gần nhất, dễ nhất, do đó đại biểu phải lắng nghe ý kiến của nhân dân và đủ quyền năng bảo vệ những lợi ích hợp pháp chính đáng này./.

---------------------------------------

(1) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996, tr. 71

(2) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương, Hà Nội, 2016, tr.167

(3) Đảng Cộng sản Việt Nam: Xem: “30 năm đổi mới và phát triển ở Việt Nam”, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2015, tr. 241

(4) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội, 2011 tr. 84, 85

(5) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương, Hà Nội, 2016, tr.169

(6) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII: Sđd, tr.169

(7) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương, Hà Nội, 2016, tr.169

(8) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Văn phòng Trung ương, Hà Nội, 2016, tr.169

(9) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII: Sđd, tr 170

(10) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII: Sđd, tr 170

(11) Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII: Sđd, tr.177, 178