Tái cơ cấu ngành nông nghiệp tỉnh Trà Vinh cần những giải pháp đột phá

Minh Phước Tạp Chí Cộng sản
22:42, ngày 16-11-2015

TCCSĐT - Sau 2 năm triển khai thực hiện Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, tỉnh Trà Vinh đã tạo được nhiều vùng sản xuất nông nghiệp hàng hóa chuyên canh, quy mô lớn gắn với ứng dụng công nghệ tiên tiến. Giá trị và hiệu quả kinh tế trên đơn vị diện tích đất canh tác được nâng lên rõ rệt. Song vẫn còn nhiều hạn chế, vướng mắc cần có những giải pháp phù hợp và mang tính đột phá hơn nữa trong thời gian tới.

Những kết quả đạt được tạo đà cho những bước tiếp theo

Thực hiện Đề án được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt và các kế hoạch hành động của Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn tham mưu xây dựng, trình Ủy ban nhân dân tỉnh phê duyệt Kế hoạch hành động thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp tỉnh Trà Vinh (theo Quyết định số 2368/QĐ-UBND ngày 13-12-2013) và một số Đề án tái cơ cấu ngành thủy lợi, chăn nuôi. Nhờ làm tốt công tác chỉ đạo, lãnh đạo và làm tốt công tác tuyên truyền với nhiều hình thức phong phú, đa dạng nên ngành đã đạt được kết quả bước đầu đáng ghi nhận.

Trước hết, về công tác kế hoạch

Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã có Quyết định số 66/QĐ-SNN ngày 21-02-2014 ban hành Kế hoạch thực hiện Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Đến nay, đã có 7/9 huyện, thị xã, thành phố xây dựng kế hoạch thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững.

Thứ hai, về công tác quy hoạch

Đến nay, tỉnh đã hoàn thành việc rà soát điều chỉnh, bổ sung 4 quy hoạch: Quy hoạch phát triển ngành nghề nông thôn tỉnh Trà Vinh đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020; Quy hoạch phát triển chăn nuôi, các khu phát triển chăn nuôi và giết mổ tập trung tỉnh Trà Vinh đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020; Quy hoạch chuyển đổi cơ cấu sản xuất nông, lâm, diêm nghiệp và nuôi trồng thủy sản trên địa bàn tỉnh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030. Lập mới 7 quy hoạch: Quy hoạch phát triển thủy sản tỉnh Trà Vinh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Quy hoạch vùng sản xuất giống thủy sản tập trung tỉnh Trà Vinh đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030; Quy hoạch hệ thống các trạm bơm điện vừa và nhỏ trên địa bàn tỉnh Trà Vinh đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2050; Quy hoạch hệ thống đê bao, bờ bao ven sông Cổ Chiên và sông Hậu trên địa bàn tỉnh Trà Vinh giai đoạn 2013 - 2020 và định hướng đến năm 2050; Quy hoạch vùng cây ăn quả chủ lực trồng tập trung trên địa bàn tỉnh Trà Vinh đến năm 2020; Quy hoạch chi tiết nuôi, chế biến cá tra tỉnh Trà Vinh đến năm 2020 và định hướng đến năm 2025; Quy hoạch thủy lợi phục vụ nuôi trồng thủy sản tỉnh Trà Vinh đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2030.

Thứ ba, về thực hiện chuyển đổi cơ cấu sản xuất

Nhờ thực hiện chuyển đổi cơ cấu sản xuất nên kinh tế nông nghiệp của tỉnh năm 2015 tiếp tục có bước phát triển. Giá trị sản xuất toàn ngành (theo giá so sánh năm 1994) đạt 8.750 tỷ đồng, tốc độ tăng bình quân hằng năm 3,78%. Cơ cấu kinh tế ngành, nông nghiệp chiếm 65,34%; lâm nghiệp chiếm 1,07%; thủy sản chiếm 33,59%. Nhìn chung, cơ cấu kinh tế nông nghiệp của tỉnh có sự chuyển dịch tích cực theo hướng giảm tỷ trọng nông nghiệp (từ 67,26% xuống còn 65,34%), tăng tỷ trọng thủy sản (từ 31,52% lên 33,59%) và trong nội ngành thủy sản giá trị nuôi trồng cũng có bước chuyển biến (từ 72,23% lên 74,77%). Giá trị sản xuất/ha đất nông nghiệp đạt 115 triệu đồng/năm; giá trị sản xuất/ha đất nuôi trồng thủy sản đạt 275 triệu đồng/năm.

Thứ tư, chuyển giao, ứng dụng khoa học - kỹ thuật

Tổ chức tập huấn, hướng dẫn kỹ thuật sản xuất cho trên 20.000 lượt nông dân về biện pháp “3 giảm 3 tăng”(1), “1 phải 5 giảm”(2), sử dụng màng phủ nông nghiệp và các biện pháp phòng trừ dịch bệnh tổng hợp trong sản xuất để giảm chi phí, hạ giá thành, tăng thu nhập cho nông dân; hướng dẫn các quy trình chăn nuôi an toàn sinh học và kỹ thuật nuôi thủy sản; phân công cán bộ kỹ thuật tư vấn trực tiếp cho trên 10.000 lượt hộ. Nhân rộng được 227 công trình khí sinh học trong chăn nuôi, 150 mô hình chăn nuôi trên đệm lót sinh học; xây dựng 15 mô hình trình diễn về máy cấy lúa và ứng dụng hệ thống thâm canh cải tiến trong sản xuất lúa theo SRI; trên 200 mô hình ứng dụng khoa học - kỹ thuật trong luân canh lúa/màu, chăn nuôi gia súc - gia cầm, nuôi thủy sản luân canh với lúa…

Thứ năm, thu hút doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn

Thực hiện công tác xúc tiến đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn và liên kết xây dựng chuỗi giá trị ngành hàng (cây lúa, thanh long, măng cụt, đậu phộng, bắp lai…) đã thu hút được 8 doanh nghiệp tham gia đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn với tổng vốn đầu tư khoảng 130 tỷ đồng; 5 doanh nghiệp đăng ký và đang làm thủ tục chuẩn bị đầu tư vào lĩnh vực chăn nuôi và trồng trọt với vốn đầu tư khoảng 65 tỷ đồng. Ngoài ra, còn có 23 doanh nghiệp tham gia chuỗi liên kết, xây dựng cánh đồng lớn.

Thứ sáu, xây dựng nông thôn mới gắn với tái cơ cấu ngành

Việc gắn kết này thể hiện ngay từ việc xây dựng quy hoạch đến việc thu hút đầu tư. Trong quá trình tổ chức, thực hiện các tiêu chí của Chương trình xây dựng nông thôn mới theo hướng thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp theo hướng tích cực và phát triển bền vững.

Thứ bảy, đầu tư hạ tầng kỹ thuật phục vụ tái cơ cấu sản xuất, thích ứng biến đổi khí hậu

Huy động trên 588 tỷ đồng đầu tư thực hiện 20 dự án trọng điểm gồm: 10 dự án thủy lợi phục vụ nuôi trồng thủy sản, 3 dự án kết cấu hạ tầng phục vụ sản xuất lúa và giống thủy sản, 5 dự án đê, kè và 2 dự án dân dụng. Ngoài ra, các địa phương huy động thi công, đào đắp, nạo vét 500 công trình thủy lợi nội đồng, tổng chiều dài 350 ngàn mét, khối lượng đào đắp 1,23 triệu m3.

Thứ tám, tổ chức lại sản xuất, phát triển các hình thức liên kết

Đến nay, toàn tỉnh có 34 hợp tác xã nông nghiệp với 1.598 xã viên, tổng vốn điều lệ là 25,87 tỷ đồng, diện tích đất tham gia hợp tác 1.399ha. Duy trì hoạt động 1.845 tổ hợp tác, với 36.500 tổ viên tham gia, tổng diện tích đất đưa vào hợp tác khoảng 36.000ha. Toàn tỉnh có 108 trang trại, gồm 61 trang trại thủy sản, 40 trang trại chăn nuôi, 6 trang trại trồng trọt và 1 trang trại sản xuất - kinh doanh tổng hợp.

Một vấn đề quan trọng được tỉnh quan tâm là thực hiện liên kết trong sản xuất. Trước hết là liên kết trong sản xuất lúa: triển khai và duy trì 25 điểm sản xuất lúa theo hình thức liên kết “Cánh đồng lớn” diện tích 4.244ha, với trên 23 doanh nghiệp tham gia liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Trong đó, Công ty Lương thực Trà Vinh, Công ty Cổ phần bảo vệ thực vật An Giang liên kết sản xuất 2.000ha, bao tiêu 10.000 tấn lúa/năm. Tiếp đến là liên kết đối với cây màu, cây công nghiệp ngắn ngày: Công ty Cổ phần giống cây trồng miền Nam liên kết sản xuất với hợp tác xã nông nghiệp, các hộ nông dân các huyện Cầu Ngang, Trà Cú, Duyên Hải trên 1.280ha bắp giống, hằng năm bao tiêu trên 11.000 tấn. Công ty Mía đường Trà Vinh thực hiện liên kết sản xuất, tiêu thụ sản phẩm cho 1.545ha mía đường. Cuối cùng là liên kết trong chăn nuôi: thực hiện 9 mô hình liên kết sản xuất - tiêu thụ sản phẩm với Công ty Cổ phần chăn nuôi CP Việt Nam (6 mô hình nuôi gà, 3 mô hình chăn nuôi heo), quy mô 42.000 con gà và 2.000 con heo thịt.

Vẫn còn nhiều hạn chế, vướng mắc

Bên cạnh những kết quả đã đạt được, trong quá trình thực hiện Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp, Trà Vinh gặp không ít khó khăn, vướng mắc cần khắc phục:

- Công tác triển khai, quán triệt, thực hiện Đề án tái cơ cấu ngành nông nghiệp chưa được các ngành trong tỉnh, các địa phương quan tâm đúng mức, chỉ đạo thiếu sâu sát, quyết liệt; chậm xây dựng kế hoạch thực hiện. Mặt khác, có sự lúng túng trong việc xác định nội dung, giải pháp thực hiện cụ thể ở địa phương, đơn vị mình.

- Qua 2 năm thực hiện tái cơ cấu, tuy đã đạt được kết quả khá trên một số mặt, nhưng đánh giá tổng thể cơ cấu nông nghiệp và kinh tế nông thôn chuyển dịch chậm, chưa có sự đột phá; sản xuất nông nghiệp vẫn còn nhiều khó khăn, còn rất nhiều vướng mắc về thị trường tiêu thụ, do sản xuất còn nhỏ lẻ, tự phát, chưa gắn kết với thị trường, khả năng cạnh tranh về giá, về chất lượng của một số nông - thủy sản của tỉnh còn thấp.

- Nông nghiệp của tỉnh chưa hình thành được nhiều vùng chuyên canh sản xuất tập trung quy mô lớn; tổ chức lại sản xuất, thực hiện liên kết, xây dựng chuỗi giá trị cho một số nông - thủy sản chủ lực chưa được quan tâm đúng mức. Việc chuyển giao ứng dụng khoa học - công nghệ vào sản xuất, đặc biệt là các kỹ thuật canh tác bền vững, sản xuất gắn kết với thị trường và xây dựng thương hiệu cho sản phẩm hàng hóa còn nhiều hạn chế, bất cập.

- Ngành thủy sản và chăn nuôi là 2 ngành có nhiều điều kiện và tiềm năng để phát triển, tỉnh xác định là ngành mũi nhọn và là ngành trọng yếu tạo sự đột phá trong nông nghiệp nhưng thời gian qua chậm chuyển dịch, giá trị tỷ trọng chưa cao, phát triển chưa bền vững, còn nhiều rủi ro.

- Ngành trồng trọt đã hình thành được một số vùng sản xuất tập trung (vùng sản xuất lúa chất lượng cao, vùng nguyên liệu mía, vùng trồng bắp, đậu phộng…), nhưng việc thực hiện hợp tác, liên kết trong sản xuất, chế biến, tiêu thụ gặp nhiều khó khăn. Việc thực hiện chuyển đổi cây trồng trên đất trồng lúa kém hiệu quả chưa được các địa phương tập trung chỉ đạo, chưa đạt yêu cầu đề ra.

- Công tác xúc tiến thương mại còn nhiều hạn chế, chưa giới thiệu được nhiều sản phẩm nông - thủy sản chủ lực của tỉnh ra bên ngoài, chưa gắn kết tốt với các siêu thị, thị trường có tiềm năng ở các tỉnh, thành trung tâm. Khả năng theo dõi, dự báo, thông tin thị trường,... còn nhiều yếu kém, nên khó khắc phục được tình trạng “được mùa, mất giá”, từ đó nông dân thiếu an tâm nên không mạnh dạn thực hiện chuyển đổi, mạnh dạn đầu tư sản xuất thâm canh.

- Quan hệ sản xuất chậm đổi mới, các hình thức tổ chức sản xuất tập thể hoạt động kém hiệu quả nên chưa khuyến khích được nhiều người dân tham gia, còn trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước. Kinh tế trang trại là mô hình sản xuất, kinh doanh có hiệu quả cao nhưng phát triển chưa nhiều.

- Việc triển khai các chính sách khuyến khích, hỗ trợ của trung ương đối với nông nghiệp, nông thôn còn chậm; mặt khác tỉnh cũng chưa có những chính sách đặc thù riêng để tạo sự đột phá.

Những hạn chế, vướng mắc trên có nhiều nguyên nhân, trong đó có các nguyên nhân chủ yếu sau: (1) Năng lực tham mưu triển khai Đề án và các chủ trương, cơ chế, chính sách, pháp lập của Đảng và Nhà nước còn hạn chế; xây dựng và triển khai thực hiện quy hoạch của ngành nông nghiệp tỉnh còn chậm; Việc tổ chức quán triệt và chỉ đạo triển khai thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp ở cấp huyện, xã chưa được quan tâm, tập trung đúng mức. (2) Các doanh nghiệp của tỉnh phần lớn là vừa và nhỏ, thiếu năng lực nên chưa tham gia đầu tư nhiều vào nông nghiệp và nông thôn. Mặt khác, đầu tư cho nông nghiệp hiệu quả mang lại không cao, nhiều rủi ro nên việc kêu gọi các doanh nghiệp và các thành phần kinh tế khác ngoài nhà nước đầu tư vào lĩnh vực này gặp nhiều khó khăn. (3) Công nghiệp chế biến trong tỉnh chưa phát triển, phần lớn nông - thủy sản sản xuất ra bán thô hoặc bán sản phẩm mới qua sơ chế nên giá trị gia tăng thấp, thiếu sức cạnh tranh về chất lượng, về giá. (4) Kinh tế, ngân sách của tỉnh còn nhiều khó khăn nên việc đầu tư cho phát triển nông nghiệp, nông thôn chưa nhiều. (5) Thị trường tiêu thụ nông sản thiếu ổn định, còn khó khăn nên người sản xuất thiếu an tâm đầu tư, dẫn đến tình trạng sản xuất tự phát, chạy theo phong trào, phá vỡ quy hoạch, tiềm ẩn nhiều rủi ro.

Cần có những giải pháp mang tính đột phá trong thời gian tới

Nhằm tháo gỡ khó khăn, vướng mắc và thúc đẩy quá trình thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp trong thời gian tới tỉnh cần tập trung triển khai thực hiện các giải pháp mang tính đột phá sau:

Một là, đẩy mạnh công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức và tạo sự quyết tâm cao trong triển khai thực hiện tái cơ cấu ngành nông nghiệp: Các địa phương, đơn vị tổ chức nghiên cứu, quán triệt các chủ trương của Đảng, Chính phủ, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn và của tỉnh về tái cơ cấu ngành. Phổ biến đến các xã, cơ sở. Xác định rõ, đây là chủ trương lớn xuất phát từ yêu cầu khách quan, vì lợi ích của người dân.

Hai là, hoàn thành các quy hoạch nông nghiệp đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030, định kỳ thực hiện rà soát để điều chỉnh, bổ sung bảo đảm chất lượng, tính khả thi của các quy hoạch, tăng cường vai trò quản lý nhà nước các cấp về quy hoạch.

Ba là, tiếp tục tập trung chỉ đạo phát triển sản xuất và chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo nội dung Đề án. Phát triển vùng chuyên canh, chuyên nuôi với quy mô sản xuất hàng hóa gắn với từng bước hình thành chuỗi giá trị đối với những nông - thủy sản tỉnh có lợi thế để tăng tính cạnh tranh về chất lượng, về giá cả. Thực hiện quảng bá thương hiệu kết hợp với tập trung đẩy mạnh hơn nữa công tác xúc tiến thương mại, nhằm gắn kết sản xuất với thị trường tiêu thụ (các siêu thị, chợ đầu mối, trung tâm thương mại...), tiến tới xây dựng “mỗi địa phương một sản phẩm đặc thù”.

Bốn là, triển khai thực hiện đồng bộ và có hiệu quả các chính sách của trung ương, đồng thời rà soát, hoàn thiện các chính sách đặc thù của tỉnh, thực hiện cải cách hành chính gắn kết với thực hiện công tác xúc tiến mời gọi các doanh nghiệp đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, đặc biệt là những ngành, những lĩnh vực có tác động tạo đột phá trong nông nghiệp.

Năm là, tiếp tục đẩy mạnh thực hiện Chương trình xây dựng nông thôn mới gắn với tái cơ cấu ngành nông nghiệp. Trong quá trình triển khai Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới phải hết sức chú trọng chất lượng các tiêu chí; Kết quả của xây dựng nông thôn mới là chuyển dịch cơ cấu sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân, thay đổi thực sự bộ mặt kinh tế - văn hóa - xã hội nông thôn.

Sáu là, đẩy mạnh công tác khuyến nông, chuyển giao các tiến bộ kỹ thuật mới, quan tâm các giải pháp kỹ thuật phục vụ cho việc giảm chi phí đầu tư, nâng cao hiệu quả sản xuất, nâng cao chất lượng nông sản. Tập trung đầu tư cho công tác khảo nghiệm, chuyển giao, ứng dụng tiến bộ khoa học, công nghệ mới vào sản xuất, ưu tiên đối với các sản phẩm nông nghiệp chủ lực.

Bảy là, huy động các nguồn lực đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, nhất là hệ thống thủy lợi, giao thông nội đồng, điện phục vụ tái cơ cấu ngành nông nghiệp; đầu tư mới và nâng cấp hệ thống đê sông, đê biển và các công trình phục vụ phát triển sản xuất, phòng, chống thiên tai và ứng phó với biến đổi khí hậu; xây dựng hạ tầng các khu sản xuất giống, hệ thống thủy lợi phục vụ các vùng nuôi tôm công nghiệp tập trung, các cảng cá, bến cá, khu neo đậu, tránh trú bão cho tàu cá.

Tám là, quan tâm hơn nữa việc củng cố, phát triển, nâng cao hiệu quả kinh tế hợp tác, hợp tác xã, hình thành các hợp tác xã kiểu mới nhằm thực hiện tốt hơn việc tổ chức lại sản xuất, làm tốt vai trò cầu nối trong chuỗi “liên kết 4 nhà”./.

-------------------------------------------

(1) 3 giảm trong sản xuất lúa là: - Giảm lượng giống gieo sạ - Giảm lượng thuốc trừ sâu bệnh - Giảm lượng phân đạm. 3 Tăng tức là: - Tăng năng suất lúa - Tăng chất lượng lúa gạo - Tăng hiệu quả kinh tế

(2) “1 phải” là phải sử dụng giống xác nhận. “5 giảm” gồm giảm lượng hạt giống, giảm lượng phân đạm bón thừa, giảm thuốc bảo vệ thực vật hóa học, giảm lượng nước tưới và giảm tổn thất sau thu hoạch