Công tác quản lý và sử dụng tài nguyên ở nước ta hiện nay: Thực trạng, vấn đề đặt ra và giải pháp khắc phục

Nguyễn Minh Quang Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Tài nguyên và Môi trường
21:51, ngày 24-09-2014

TCCS - Công tác quản lý tài nguyên hướng tới làm rõ tiềm năng, trữ lượng, giá trị các nguồn tài nguyên của đất nước, từ đó bảo đảm khai thác, sử dụng tài nguyên hợp lý, hiệu quả và bền vững đi đôi với bảo vệ, phục hồi và tái tạo các nguồn tài nguyên để thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội. Thực tiễn công tác quản lý, sử dụng tài nguyên ở nước ta hiện nay đã và đang đặt ra nhiều thách thức, đòi hỏi phải có cách tiếp cận hệ thống từ nâng cao nhận thức, đổi mới, hoàn thiện chính sách, pháp luật đến tổ chức thực hiện để khắc phục những bất cập, yếu kém của công tác này, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới.

Tình hình chung

Tài nguyên thiên nhiên (sau đây gọi là tài nguyên) có trong các thành phần môi trường, tồn tại dưới dạng tự nhiên, không phụ thuộc vào ý chí của con người. Tài nguyên là thành phần không thể thiếu, được khai thác, sử dụng phục vụ cuộc sống và sự phát triển của xã hội loài người. Vì vậy, với mỗi quốc gia, dân tộc, tài nguyên là nguồn tài sản, nguồn lực, nguồn vốn tự nhiên đặc biệt quan trọng để xây dựng và phát triển đất nước.

Công tác quản lý tài nguyên phải nhằm bảo đảm các yêu cầu sau: 1- Hiểu biết ngày càng đầy đủ hơn, toàn diện hơn về tiềm năng, trữ lượng, giá trị của các nguồn tài nguyên; 2- Phát huy, cân đối nguồn lực tài nguyên cho phát triển kinh tế - xã hội; 3- Bảo đảm khai thác, sử dụng tài nguyên hợp lý, hiệu quả và bền vững; 4- Bảo vệ, phục hồi, phát triển các nguồn tài nguyên tái tạo. Nội dung, phương thức, biện pháp quản lý tài nguyên phụ thuộc nhiều vào điều kiện tự nhiên, loại hình tài nguyên, mô hình tăng trưởng, đặc điểm, trình độ phát triển kinh tế - xã hội. Trong thế giới hiện nay, tài nguyên trở thành nguồn lực khan hiếm, là đối tượng bị tranh chấp quyết liệt ở nhiều nơi trên thế giới, nhất là các nguồn tài nguyên không tái tạo. Bối cảnh đó đặt ra yêu cầu, thách thức ngày càng lớn đối với công tác quản lý tài nguyên ở nước ta.

Việt Nam có diện tích tự nhiên khoảng 331.698km2, bờ biển dài hơn 3.260km, được xếp ở quy mô trung bình, đứng thứ 59 trong tổng số 200 quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới. Tuy nhiên, do dân số đông (hơn 90 triệu người, xếp thứ 13 trên thế giới) nên bình quân diện tích tự nhiên trên đầu người rất thấp (khoảng 0,38 ha), chỉ bằng 1/5 mức bình quân của thế giới (1,96 ha). Việt Nam có sự đa dạng về địa chất, địa hình, tài nguyên khoáng sản tương đối phong phú về chủng loại, một số loại có trữ lượng, tiềm năng tài nguyên lớn có thể phát triển thành các ngành công nghiệp, như dầu khí, bô-xít, ti-tan, than, đất hiếm...; tiềm năng năng lượng tái tạo lớn, đặc biệt năng lượng gió, mặt trời, địa nhiệt, sinh khối. Mặc dù tổng lượng nước mặt (khoảng 830 tỷ m3/năm), nước dưới đất (khoảng 63 tỷ m3/năm) khá lớn, nhưng do địa hình hẹp, nhiều vùng dốc ra biển, hơn 60% lượng nước mặt có nguồn gốc từ nước ngoài, nên tình trạng thiếu nước cục bộ theo vùng và theo mùa vẫn xảy ra, có lúc, có nơi gay gắt. Trải dài trên nhiều vĩ tuyến, từ nhiệt đới ẩm đến á nhiệt đới, với nhiều vùng núi cao, Việt Nam có nhiều hệ sinh thái rừng với sự đa dạng và phong phú về các loài động vật, thực vật. Với diện tích vùng biển thuộc chủ quyền, quyền chủ quyền và quyền tài phán trên 1 triệu km2, Việt Nam thực sự là một quốc gia biển với nhiều loại hình tài nguyên đa dạng và phong phú, nhất là nguồn lợi thủy sản, tiềm năng vị thế phát triển giao thông, cảng biển, du lịch...

Ý thức được tầm quan trọng của các nguồn tài nguyên đối với sự phát triển và sự thịnh vượng của đất nước, từ nhiều năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm đến công tác quản lý tài nguyên. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, văn kiện các kỳ Đại hội Đảng đều đã đề cập đến vấn đề quản lý tài nguyên, nhất là đất đai, khoáng sản. Trung ương cũng đã ban hành một số nghị quyết chuyên về các nhóm tài nguyên, trong đó Nghị quyết số 24-NQ/TW, ngày 03-6-2013, của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI về Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường đã định hướng toàn diện công tác quản lý tài nguyên đến năm 2020 và tầm nhìn đến năm 2050. Hệ thống tổ chức bộ máy nhà nước về quản lý tài nguyên được hình thành đồng bộ từ Trung ương đến địa phương. Nhà nước cũng đã bố trí vốn từ ngân sách, ban hành nhiều cơ chế huy động nguồn vốn trong xã hội đầu tư cho công tác quản lý tài nguyên, nhất là công tác điều tra cơ bản, kiểm kê, thống kê, đánh giá các nguồn tài nguyên. Chủ trương, chính sách, pháp luật về quản lý tài nguyên liên tục được đổi mới, hoàn thiện, đáp ứng yêu cầu của quá trình phát triển, sự nghiệp công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước. Cơ chế, công cụ, biện pháp quản lý tài nguyên cũng có những bước chuyển đổi tích cực, nhất là cơ chế tiếp cận các nguồn tài nguyên. Các quan hệ cung cầu, cơ chế định giá, đấu giá, đấu thầu bước đầu đã hình thành, tạo bước chuyển biến trong công tác quản lý tài nguyên phù hợp hơn với thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Đất đai, khoáng sản, nguồn nước, rừng, nguồn lợi thủy sản đã được điều tra, đánh giá, quy hoạch, cân đối phục vụ các mục đích, yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội theo từng kỳ, từng giai đoạn phát triển. Nguồn thu từ tài nguyên đóng góp quan trọng cho ngân sách hằng năm của Nhà nước. Hoạt động sản xuất, kinh doanh liên quan đến khai thác, sử dụng tài nguyên đã tạo nên việc làm, thu nhập cho số đông người dân trên cả nước. Việc khai thác, sử dụng tài nguyên có sự chuyển biến theo hướng hợp lý, hiệu quả và bền vững hơn. Vấn đề bảo vệ, phục hồi, tái tạo các nguồn tài nguyên được chú ý; đầu tư phát triển các nguồn nguyên, nhiên liệu thay thế đã được quan tâm.

Những vấn đề đặt ra

Trước yêu cầu của giai đoạn phát triển mới, chuyển đổi mô hình tăng trưởng và nâng cao chất lượng phát triển, nhiều vấn đề thực tiễn đang đặt ra thách thức ngày càng lớn đối với công tác quản lý tài nguyên.

Một là, hiểu biết của chúng ta về tiềm năng, trữ lượng, giá trị của các nguồn tài nguyên của đất nước còn hạn chế; thông tin, dữ liệu về các nguồn tài nguyên không đầy đủ, thiếu toàn diện, không thống nhất và chưa được chuẩn hóa.

Tài nguyên đất, nước, khoáng sản, các hệ sinh thái, cảnh quan, tiềm năng vị thế... chưa được điều tra, đánh giá đầy đủ, toàn diện về tiềm năng, trữ lượng, giá trị. Địa chất khoáng sản chủ yếu mới được điều tra ở phần bề mặt hoặc đến độ sâu 100m của hơn 60% diện tích; địa chất khoáng sản biển mới được điều tra ở khu vực có độ sâu đến 100m nước. Hoạt động điều tra, thăm dò nguồn nước còn rất hạn chế, nhất là nguồn nước dưới đất; thông tin, dữ liệu về tài nguyên nước còn rất thiếu. Phần lớn các hệ sinh thái tự nhiên chưa được điều tra, đánh giá đầy đủ, toàn diện, kiểm kê định kỳ. Số liệu về rừng còn nhiều bất cập, không thống nhất. Thông tin, dữ liệu về nguồn lợi thủy sản chưa đủ độ tin cậy.

Việc điều tra, đánh giá, lượng hóa giá trị kinh tế của các nguồn tài nguyên chỉ mới được thử nghiệm ở một số nhóm, loại. Định giá tài nguyên chỉ mới thực hiện đối với một số nhóm tài nguyên, còn nhiều bất cập, chưa phù hợp với thể chế kinh tế thị trường. Việc thiết lập các tài khoản quốc gia về các nguồn tài nguyên chưa được nghiên cứu xây dựng. Nguồn lực tài nguyên chưa được hạch toán đầy đủ trong nền kinh tế.

Thông tin, dữ liệu về các nguồn tài nguyên chưa được chuẩn hóa, độ tin cậy không cao, không được quản lý thống nhất nên gây ra nhiều khó khăn cho việc sử dụng. Thông tin, số liệu đầu vào chất lượng thấp dẫn đến việc đánh giá, dự báo thiếu chính xác đang là vấn đề lớn trong hoạch định chính sách quản lý tài nguyên nói riêng và phát triển kinh tế - xã hội nói chung ở nước ta.

Hai là, nguồn lực tài nguyên chưa được cân đối, phân bổ hợp lý, sát với yêu cầu, mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội; xung đột trong mục tiêu, lợi ích khai thác, sử dụng, mất cân đối cung cầu về các nguồn tài nguyên đang gia tăng.

Dân số tăng nhanh, kinh tế phát triển mạnh, năng động, đa dạng, nhu cầu sử dụng không gian, mặt bằng, tài nguyên đất, nước, năng lượng, nguyên nhiên, vật liệu để đô thị hóa, công nghiệp hóa, phát triển hạ tầng kỹ thuật, giao thông, bảo đảm an ninh năng lượng, an ninh lương thực, an ninh sinh thái, nâng cao chất lượng cuộc sống của nhân dân ngày càng lớn trong khi không gian, mặt bằng, nguồn lực tài nguyên có hạn, thậm chí đang giảm dần, đang đặt vấn đề cân đối, phân bổ nguồn lực tài nguyên trước những thách thức rất lớn. Thực tế cho thấy, công tác này hiện chưa được thực hiện bài bản, thiếu chuẩn mực, còn nhiều lúng túng, bất cập, chưa tính hết lợi ích tổng thể, hài hòa trước mắt và lâu dài dẫn đến mâu thuẫn, thậm chí xung đột giữa các ngành, lĩnh vực, nhóm xã hội, giữa hiện tại và tương lai; có lúc, có nơi đang cản trở sự phát triển, gây ra những hệ lụy về sinh thái, môi trường. Trong khi đó, ở nhiều nơi đất đai, nguồn lực tài nguyên không được sử dụng đúng mục đích, thậm chí không được sử dụng gây lãng phí, thất thoát.

Ba là, việc khai thác, sử dụng nhiều nhóm tài nguyên chưa hợp lý, kém hiệu quả và không bền vững dẫn đến lãng phí nguồn lực quốc gia, một số nguồn tài nguyên bị suy thoái, cạn kiệt.

Cường độ sử dụng tài nguyên (sử dụng tài nguyên để tạo ra 1 đơn vị GDP) còn ở mức cao. Tốc độ tăng năng suất sử dụng tài nguyên có xu hướng chậm lại, một số loại tài nguyên có năng suất sử dụng thấp so với mức trung bình trên thế giới. Năng suất sử dụng đất của Việt Nam có sự gia tăng theo thời gian và đạt mức sử dụng cao so với các nước trong khu vực(1), song đang chững lại, thậm chí đi ngang từ năm 2010(2). Theo đánh giá của một số tổ chức quốc tế, Việt Nam đứng trong số các nước có năng suất sử dụng nước vào loại thấp nhất thế giới(3).

Nguồn lực tài nguyên còn bị sử dụng lãng phí, kém hiệu quả, hạn chế khả năng đóng góp cho phát triển kinh tế - xã hội. Đất đã được giao, cho thuê chậm được sử dụng; sử dụng đất nông, lâm trường kém hiệu quả; tình trạng thoái hóa đất, đất bị hoang mạc hóa ngày càng gia tăng. Khoáng sản còn bị khai thác manh mún, nhỏ lẻ, trái phép; xuất khẩu khoáng sản dưới dạng nguyên liệu thô; công nghệ khai thác, chế biến còn lạc hậu, chậm được đổi mới... dẫn đến tổn thất, lãng phí nguồn tài nguyên không tái tạo quan trọng này. Tài nguyên nước chưa được khai thác tổng hợp, phục vụ đa mục tiêu dẫn đến hiệu quả thấp; tình trạng thiếu nước theo mùa, cục bộ theo vùng còn nghiêm trọng. Diện tích che phủ của rừng có tăng nhưng chất lượng rừng giảm, rừng tự nhiên xuống cấp mạnh. Nguồn lợi thủy sản ngày càng suy giảm, năng suất, hiệu quả khai thác thấp. Tài nguyên vì thế chưa được phát huy hết tiềm năng, thế mạnh.

Bốn là, nguồn thu từ tài nguyên chưa được sử dụng một cách bền vững, lợi ích từ tài nguyên chưa được phân bổ hợp lý, hài hòa; chưa chú trọng đúng mức đến công tác bảo vệ, tái tạo, phục hồi và phát triển các nguồn tài nguyên tái tạo.

Cùng với việc kiểm soát các hoạt động khai thác nhằm bảo đảm các nguồn tài nguyên tái tạo được khai thác trong giới hạn phục hồi, khả năng tái tạo, cần chú ý đến công tác bảo vệ, phục hồi, tái tạo nhằm phát triển nguồn lực tài nguyên của đất nước. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, công tác này chưa được quan tâm đúng mức, chưa được đầu tư hợp lý nên nhiều nguồn tài nguyên tái tạo của đất nước đang trên đà suy giảm mạnh về số lượng cũng như chất lượng. Nguồn nước, tài nguyên rừng, nguồn lợi thủy sản ngày càng suy giảm, thậm chí với tốc độ nhanh hơn. Một số nguồn tài nguyên tái tạo bị suy thoái, cạn kiệt quá mức dẫn đến mất khả năng tái tạo, phục hồi.

Bài học về “lời nguyền tài nguyên” đang cảnh tỉnh các quốc gia có lợi thế về nguồn tài nguyên không tái tạo. Dầu khí, than, các loại khoáng sản của đất nước đang giảm dần trữ lượng và sẽ cạn kiệt trong thời gian tới. Nguồn thu từ tài nguyên không tái tạo chưa được sử dụng một cách bền vững, lợi ích thu được từ nguồn tài nguyên này chưa được phân bổ một cách hợp lý, hài hòa. Người dân ở những nơi khai thác tài nguyên chưa được hưởng lợi một cách xứng đáng, còn chịu nhiều ảnh hưởng bất lợi từ việc khai thác tài nguyên gây ra.

Đầu tư tìm kiếm, mở rộng hoạt động khoáng sản ra nước ngoài, phát triển các nguồn tài nguyên tái tạo, nguyên, nhiên vật liệu thay thế cũng chưa được quan tâm đúng mức. Hầu hết chất thải chưa được tái chế, tái tạo, thu hồi năng lượng để sử dụng nhằm giảm một phần áp lực lên các nguồn tài nguyên thiên nhiên.

Giải pháp khắc phục

Để khắc phục tình trạng này, trên cơ sở thể chế hóa đồng bộ và kịp thời các chủ trương, định hướng của Đảng nêu trong các văn kiện qua các kỳ Đại hội, các nghị quyết của Trung ương, nhất là Nghị quyết số 24-NQ/TW về Chủ động ứng phó với biến đổi khí hậu, tăng cường quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường, cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp, cụ thể là:

Thứ nhất, tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức về vai trò, tầm quan trọng và yêu cầu khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả và bền vững tài nguyên.

Tài nguyên cần được nhìn nhận, đánh giá đúng vai trò là nguồn vốn, đầu vào của nền kinh tế, là tài sản quốc gia có hạn, phải được khai thác, sử dụng tiết kiệm, hiệu quả và bền vững; coi việc khai thác, sử dụng hợp lý, hiệu quả tài nguyên là một trong những thước đo đánh giá chất lượng tăng trưởng kinh tế... để khắc phục tình trạng chạy theo thành tích tăng trưởng bằng việc khai thác quá mức các nguồn tài nguyên.

Vấn đề sở hữu, quyền khai thác, chế độ sử dụng tài nguyên cần được nhận thức một cách sâu sắc, đúng đắn, phù hợp với thể chế kinh tế thị trường, qua đó hình thành cơ chế tiếp cận, trách nhiệm quản lý, chế độ khai thác phù hợp nhằm phát huy tốt nhất nguồn lực tài nguyên cho phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời chú trọng việc bảo vệ các nguồn tài nguyên.

Phát huy vai trò của các phương tiện thông tin đại chúng trong việc nâng cao nhận thức về sử dụng hợp lý, hiệu quả và bền vững tài nguyên; thiết lập cơ chế thích hợp, tạo điều kiện để nhân dân tham gia hoặc hỗ trợ đắc lực cho việc giám sát, quản lý tài nguyên, đấu tranh, ngăn chặn các hành vi gây suy thoái tài nguyên.

Thứ hai, đẩy mạnh công tác điều tra, đánh giá tiềm năng, trữ lượng, giá trị kinh tế, hạch toán, thiết lập cơ sở dữ liệu, tài khoản các nguồn tài nguyên của đất nước.

Quán triệt quan điểm điều tra cơ bản phải đi trước một bước, cần tập trung đẩy mạnh điều tra cơ bản, đánh giá chất lượng, tiềm năng các loại tài nguyên của đất nước; từng bước xác định, đánh giá các giá trị kinh tế đối với các loại tài nguyên; thực hiện việc hạch toán tài nguyên đầu vào cho tăng trưởng kinh tế và từng bước thiết lập tài khoản quốc gia về tài nguyên đất, nước, khoáng sản, rừng, thủy sản.

Chuẩn hóa cơ sở dữ liệu, tăng cường công tác quản lý thông tin, dữ liệu về tài nguyên đáp ứng yêu cầu phục vụ hoạch định chính sách quản lý tài nguyên, phát triển kinh tế - xã hội.

Thứ ba, thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tái cơ cấu nền kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh.

Thông qua tiếp tục đẩy mạnh quá trình chuyển đổi cơ cấu ngành, cơ cấu vùng, cơ cấu thành phần kinh tế trên cơ sở phát huy lợi thế về vị trí địa lý và tài nguyên tái tạo, phát triển các ngành kinh tế xanh, loại bỏ dần những ngành có công nghệ lạc hậu, thâm dụng tài nguyên; khuyến khích, thúc đẩy đầu tư, đổi mới, áp dụng công nghệ sạch, công nghệ cao, thân thiện môi trường trong các ngành khai thác, chế biến tài nguyên; đẩy mạnh thực hiện các biện pháp giảm chất thải trong sản xuất, tăng cường tái sử dụng, tái chế chất thải sau sản xuất và tiêu dùng; thực hiện thống kê, kiểm kê và đánh giá hiệu quả sử dụng tài nguyên trong nền kinh tế ít nhất 5 năm một lần nhằm bảo đảm cung cấp thông tin về tình hình và hiệu quả khai thác, sử dụng; thúc đẩy chuyển đổi cơ cấu sản xuất và sử dụng năng lượng theo hướng tăng mạnh tỷ trọng năng lượng mới, năng lượng tái tạo; khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển năng lượng mới, năng lượng tái tạo, nguyên nhiên vật liệu mới.

Thứ tư, hoàn thiện hệ thống quy hoạch khai thác, sử dụng tài nguyên bảo đảm phân bổ nguồn lực tài nguyên hợp lý cho phát triển kinh tế - xã hội.

Tập trung nâng cao chất lượng quy hoạch tài nguyên bảo đảm gắn kết với mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội; xác định rõ tiềm năng, lợi thế về tài nguyên của đất nước, làm cơ sở, tiền đề cho việc lập quy hoạch phát triển ngành, lĩnh vực và vùng; lồng ghép các tiêu chí sử dụng hợp lý, hiệu quả và bền vững tài nguyên vào chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển các ngành và các vùng lãnh thổ giai đoạn 2016 - 2020; thử nghiệm phân vùng chức năng dựa trên đặc tính sinh thái từng vùng, tiềm năng tài nguyên và tác động của biến đổi khí hậu phục vụ quy hoạch phát triển, hướng tới làm rõ khu vực được ưu tiên, khu vực hạn chế hoặc cấm khai thác tài nguyên, các hoạt động kinh tế nhằm giảm xung đột giữa quản lý tài nguyên, bảo vệ môi trường và phát triển kinh tế - xã hội. Nghiên cứu xây dựng định hướng chiến lược sử dụng đất đến năm 2050, tầm nhìn đến năm 2100 làm căn cứ cho việc lập quy hoạch sử dụng đất trong các giai đoạn tới.

Thứ năm, tiếp tục nghiên cứu bổ sung, hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật và cơ chế quản lý, sử dụng tài nguyên phù hợp với yêu cầu và bối cảnh mới.

Tiếp tục nghiên cứu, hoàn thiện chế độ sở hữu, quyền khai thác, sử dụng các loại tài nguyên; cơ chế tiếp cận, định giá, hạch toán tài nguyên trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Vấn đề chia sẻ lợi ích, đền bù, hỗ trợ giữa các bên liên quan trong khai thác, sử dụng các nguồn tài nguyên cũng còn nhiều bất cập, cần phải được nghiên cứu, tổng kết, đánh giá, đổi mới, bổ sung cho phù hợp.

Rà soát, sửa đổi, bổ sung và ban hành các cơ chế, chính sách về tạo nguồn thu ngân sách, chia sẻ lợi ích với các bên liên quan dựa trên nguyên tắc người hưởng lợi từ tài nguyên phải trả tiền; về áp dụng các công cụ kinh tế nhằm nâng cao hiệu quả và tính bền vững trong khai thác, sử dụng tài nguyên, đặc biệt là các chính sách thuế, phí, lệ phí; về khuyến khích, hỗ trợ, thúc đẩy doanh nghiệp sử dụng công nghệ, thiết bị tiết kiệm năng lượng, tiết kiệm tài nguyên, khai thác, sử dụng năng lượng tái tạo, vật liệu mới, vật liệu tái chế trong hoạt động sản xuất và dịch vụ. Thiết lập cơ chế giải quyết tranh chấp, xung đột lợi ích trong khai thác, sử dụng tài nguyên thiên nhiên.

Việc tổng kết, đánh giá, nhân rộng các cơ chế, công cụ kinh tế, mô hình đồng quản lý tài nguyên áp dụng trong thực tiễn quản lý một số loại tài nguyên đã phát huy được tác dụng trên thực tế. Tiếp tục rà soát, hoàn thiện cơ chế phân cấp đi kèm với giám sát, đánh giá bảo đảm phù hợp với năng lực thực tế và điều kiện của các địa phương. Việc đổi mới cơ chế, chính sách quản lý tài nguyên phải đồng bộ với chủ trương nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế.

Thứ sáu, tăng cường năng lực tổ chức thực hiện và cơ chế giám sát, đánh giá việc thực thi các chiến lược, quy hoạch, chính sách, pháp luật về quản lý tài nguyên.

Kiện toàn bộ máy quản lý nhà nước, nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ nhà nước về quản lý tài nguyên ở Trung ương và địa phương. Khắc phục tình trạng chồng chéo chức năng, nhiệm vụ, phân công, phân cấp không phù hợp; hình thành cơ chế phối hợp liên ngành hiệu quả trên cơ sở phân công trách nhiệm rõ ràng và hợp lý giữa các bộ, ngành trong hoạt động điều tra cơ bản, quản lý, sử dụng tài nguyên. Tăng cường đào tạo, phát triển nhân lực, đặc biệt là nhân lực có chất lượng cao về quản lý tài nguyên góp phần nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Phát huy vai trò của các tổ chức xã hội và người dân trong giám sát việc khai thác, sử dụng tài nguyên.

Được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, công tác quản lý tài nguyên đã từng bước được chấn chỉnh, tăng cường, góp phần cân đối nguồn lực cho phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, đồng thời bảo vệ, phục hồi và tái tạo các nguồn tài nguyên của đất nước. Tuy nhiên, trước những yêu cầu, thách thức đặt ra từ chủ trương chuyển đổi mô hình tăng trưởng, trong giai đoạn phát triển mới vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra đối với công tác quản lý tài nguyên từ thiếu hiểu biết đầy đủ, thông tin, dữ liệu về các nguồn tài nguyên, những bất cập trong cơ chế phân bổ nguồn lực này cho phát triển kinh tế - xã hội, vấn đề bất hợp lý, kém hiệu quả và thiếu bền vững trong việc khai thác, sử dụng cùng việc chưa quan tâm đúng mức đến bảo vệ, phục hồi, tái tạo các nguồn tài nguyên của đất nước. Các giải pháp cho những vấn đề trên phải được thực hiện đồng bộ, bao gồm: nâng cao nhận thức, đẩy mạnh điều tra cơ bản, thúc đẩy chuyển đổi mô hình tăng trưởng, tái cấu trúc các ngành kinh tế theo hướng tăng trưởng xanh, đổi mới, nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, đổi mới, hoàn thiện chính sách pháp luật và tăng cường năng lực tổ chức thực hiện. Nhận thức được vấn đề đang đặt ra và có các giải pháp đồng bộ, phù hợp là điều kiện tiên quyết để nâng cao chất lượng quản lý tài nguyên, đáp ứng yêu cầu của thực tiễn trong thời gian tới./.

-------------------------------------------

(1) Cụ thể, năng suất sử dụng đất của Việt Nam trong giai đoạn 1991 - 2008 tăng hơn 1,5 lần so với giai đoạn 1980 - 1990, từ mức 981,89 USD/ha lên 1.569,51 USD/ha, thuộc loại cao nhất khu vụ châu Á (Theo Báo cáo Chỉ số phát triển thế giới, Ngân hàng Thế giới, 2013)

(2) Theo kết quả nghiên cứu của UNESCAP và Viện Quản lý kinh tế Trung ương 2009

(3) Số liệu thống kê của Ngân hàng Thế giới cho thấy, năng suất sử dụng nước (tính theo khối lượng nước sử dụng để tạo ra 2.000 USD GDP) của Việt Nam chỉ tương đương với Lào, bằng 1/4 so với trung bình của thế giới, bằng 1/4 của Thái Lan và In-đô-nê-xi-a và chỉ bằng 1/938 của Xin-ga-po - nước có năng suất sử dụng nước cao nhất trên thế giới (Theo Báo cáo Chỉ số phát triển thế giới, Ngân hàng Thế giới, 2013)