Về phát triển nông nghiệp các vùng ven biển
TCCS - Vùng biển, ven biển của nước ta có nhiều tiềm năng để phát triển kinh tế, tuy nhiên tiềm năng này đã được khai thác đến đâu và làm gì để phát huy nó có hiệu quả nhất trong thời gian tới là điều đáng quan tâm, suy nghĩ.
1 - Đánh giá tiềm năng phát triển nông nghiệp(1) ở các vùng ven biển Việt Nam
Nguồn lợi thủy sản là tiềm năng to lớn của nông nghiệp ven biển
Nguồn lợi thủy sản biển của Việt Nam được đánh giá vào loại phong phú trong khu vực. Ngoài cá biển là nguồn lợi chính, còn nhiều loại đặc sản khác có giá trị kinh tế cao như tôm, cua, mực, hải sâm, rong biển... Đây là điều kiện quan trọng để Việt Nam phát triển mạnh ngành kinh tế thủy sản trên biển và ven biển, đồng thời phát triển ngành công nghiệp chế biến thủy sản đa dạng và tiến tới hiện đại với giá trị cao, được thị trường ưa chuộng.
Nguồn muối biển là lợi thế riêng của nông nghiệp ven biển
Nguồn lợi muối chứa trong nước biển bình quân đạt 3.500g/m3, là nguồn nguyên liệu vô tận để phát triển ngành muối công nghiệp, muối dân sinh và có vai trò rất to lớn trong phát triển các ngành công nghiệp hóa chất, từ đó dùng để sản xuất ra các sản phẩm công nghiệp khác.
Tuy nhiên, điều kiện tự nhiên ven biển không thuận lợi cho trồng trọt, chăn nuôi và lâm nghiệp.
Đối với nghề trồng trọt, do ảnh hưởng của nước biển nên các vùng đất ven biển thường là đất cát hoặc pha cát, bị nhiễm mặn, nhất là khi bị tác động mạnh của nước biển xâm nhập vào những thời gian có bão. Nguồn nước ngọt cho thủy lợi ở các vùng này cũng rất khó khăn, vì vậy nghề trồng trọt ven biển thường khó phát triển, năng suất thấp và hay gặp phải rủi ro về bão lũ, nước biển tràn làm hỏng đất canh tác. Những loài cây không chịu được mặn hoặc bão táp không thể phát triển tốt ở các vùng này.
Hoạt động lâm nghiệp biển, ven biển cũng quan trọng, nhưng với vai trò bảo vệ môi trường sinh thái biển, ven biển, chống bão, gió và chắn cát bay hơn vai trò kinh tế, kinh doanh.
Đối với nghề chăn nuôi, vì trồng trọt khó phát triển, đặc biệt là các loại cây lương thực nên ngành chăn nuôi những loài vật sử dụng các nguồn thức ăn tinh bột sẽ không đủ để phát triển. Chăn nuôi các loài vật tiêu thụ chủ yếu thức ăn thô, lá cây, cỏ dại... cũng không thể phát triển với quy mô lớn. Ngoài ra, tình trạng thiếu nước ngọt và đất đai khô cằn cũng là yếu tố hạn chế phát triển chăn nuôi ở những vùng này.
Nguồn nhân lực dồi dào là điều kiện vừa thuận vừa không thuận để phát triển kinh tế vùng ven biển
Tại các vùng ven biển có trên 20 triệu người đang sinh sống, với lực lượng lao động khoảng 12,8 triệu người, chiếm 35,5% lao động cả nước là điều kiện quan trọng về nhân lực để Việt Nam khai thác các nguồn tiềm năng cho phát triển nông nghiệp. Tuy nhiên, nếu nguồn nhân lực đông đảo ven biển không được đào tạo những kiến thức về trồng trọt, chăn nuôi, nuôi thả thủy sản và làm muối thì nông nghiệp ven biển sẽ không những không phát triển được, mà còn là gánh nặng cho phát triển kinh tế.
2 - Tình hình phát triển kinh tế nông nghiệp ven biển
Từ các lợi thế và bất lợi thế trên đây, kinh tế nông nghiệp ven biển thường hướng vào phát triển các hoạt động khai thác, nuôi trồng thủy sản bao gồm: đánh bắt thủy sản nước mặn trên biển; nuôi trồng các loại thủy sản nước mặn, nước lợ trên biển; nuôi trồng thủy sản trên đất liền bằng cách lấy nước biển tạo các ao nuôi thủy sản nhân tạo; nuôi trồng đánh bắt trên các vùng nước lợ ở các vùng cửa sông đổ ra biển. Cùng với các hoạt động nuôi trồng, đánh bắt thủy sản biển, ven biển là các hoạt động chế biến các loài thủy sản nước mặn và nước lợ và các hoạt động dịch vụ cho hoạt động nuôi trồng, đánh bắt, chế biến thủy sản.
Nghề làm muối được phát triển gắn chặt với sử dụng và khai thác nguồn nước biển ở những vùng có lợi thế về đất phù hợp cho sản xuất muối và có đủ ánh nắng mặt trời để làm khô nước biển. Cụ thể tình hình phát triển các hoạt động kinh tế nông, lâm, thủy sản và diêm nghiệp ven biển, hải đảo trong thời gian qua như sau:
Về đánh bắt (khai thác) thủy sản trên biển
|
Từ năm 1993 đến nay ngành đánh bắt, nuôi trồng thủy sản biển, ven biển được coi là ngành kinh tế mũi nhọn trong hệ thống ngành nông nghiệp, trong đó nghề đánh bắt thủy sản đã có những bước phát triển đáng kể. |
Đây là nghề truyền thống từ lâu đời, tạo ra nguồn lợi thực phẩm thủy sản cao cấp cho tiêu dùng trong nước và xuất khẩu, tạo công ăn việc làm, thu nhập, cải thiện đời sống ngư dân các tỉnh ven biển, bảo đảm sự hiện diện, bảo vệ chủ quyền quốc gia ở các vùng biển, ven biển. Hoạt động đánh bắt đã tạo việc làm cho hơn 500.000 lao động trực tiếp và 1 triệu lao động dịch vụ. Tuy nhiên, sau vài thập niên tăng cường đánh bắt khai thác, nguồn lợi thủy sản biển đã giảm sút đáng kể về mật độ, chủng loài và kích thước... đặc biệt ở các vùng biển ven bờ, nơi tập trung trên 80% số phương tiện đánh bắt (đã tạo ra 70% - 80% sản lượng đánh bắt của cả nước). Ba ngư trường quan trọng nhất là Hải Phòng - Quảng Ninh; Ninh Thuận - Bình Thuận và Cà Mau - Kiên Giang, tập trung khoảng trên 50% số phương tiện đánh bắt hằng năm. Sự thay đổi trên là nguyên nhân giảm năng suất, sản lượng khai thác của nhiều nhóm nghề. Ngoài ra, đã và đang xuất hiện tình trạng dư thừa cục bộ phương tiện đánh bắt thủy sản, công suất huy động của các tàu đang tham gia đánh bắt giảm dần, có tàu chỉ huy động khoảng 50% công suất.
Về nuôi trồng thủy sản ven biển
Bên cạnh đánh bắt, hoạt động nuôi trồng thủy sản ven biển có rất nhiều tiềm năng và lợi thế. Trên phạm vi cả nước, diện tích có khả năng nuôi trồng thủy sản ven biển khoảng trên 400.000 ha. Trước tình trạng nguồn lợi hải sản đang suy kiệt, ngư dân đã chuyển mạnh từ khai thác sang nuôi trồng thủy sản ven biển với nhiều hình thức đa dạng. Nhà nước đã ban hành các chính sách khuyến khích và tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức, hộ gia đình, cá nhân thuộc các thành phần kinh tế trong và ngoài nước đầu tư vào lĩnh vực nuôi trồng thủy sản trên các vùng ven biển và hải đảo. Chính phủ cũng phân cấp cho ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương toàn quyền quyết định giao, cho thuê đất và mặt nước ven biển cho tổ chức, cá nhân, hộ gia đình có nhu cầu sử dụng vào nuôi trồng, phát triển kinh tế thủy sản. Nhà nước đã đầu tư cho quy hoạch các vùng nuôi thả thủy sản ven biển, đất liền và hải đảo; cho phép nhập khẩu một số giống, loài đặc sản sạch bệnh có giá trị kinh tế cao, quý hiếm và kỹ thuật sản xuất giống thủy sản biển nhân tạo; tổ chức đào tạo đội ngũ cán bộ khoa học - kỹ thuật nuôi trồng thủy sản biển; ưu tiên bố trí kinh phí cho công tác khuyến ngư; hỗ trợ tín dụng cho các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng thiết yếu ở các vùng nuôi trồng thủy sản ven biển. Ngân hàng Chính sách xã hội Việt Nam và các tổ chức tín dụng khác đã đáp ứng nhu cầu vay vốn của các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình vay vốn nuôi trồng thủy sản ven biển và hải đảo.
|
Hoạt động nuôi trồng thủy sản đã phát triển khá nhanh ở các tỉnh có biển trong những năm gần đây. Từ đó mở ra một hướng phát triển mới của ngành kinh tế thủy sản và ngành nông nghiệp theo nghĩa rộng, tạo việc làm và thu nhập cho nông dân, thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu kinh tế, góp phần điều chỉnh giảm bớt hoạt động khai thác ven bờ bằng phương tiện thủ công làm cạn kiệt tài nguyên thủy sản biển, bảo vệ và phát triển được nguồn lợi thủy sản. |
Song, hạn chế của hoạt động nuôi trồng thủy sản ven biển, hiện nay là do nghề nuôi trồng thủy sản ven biển và hải đảo đòi hỏi vốn đầu tư lớn, nên thời gian vừa qua chỉ các doanh nghiệp tư nhân, liên doanh và một số hộ nông dân có vốn mới có khả năng đầu tư phát triển; sản xuất còn mang nặng tính tự phát ở hầu hết các vùng ven biển; từng hộ, từng chủ doanh nghiệp tự lo sản nghiệp của mình, mà chưa cùng nhau hợp tác để cùng phát triển nuôi trồng trên diện tích rộng, quy mô sản phẩm hàng hóa lớn; nhiều hộ dân còn thiếu kiến thức về kỹ thuật nuôi trồng thủy sản biển nên hay gặp rủi ro. Ngoài ra, việc sử dụng diện tích mặt nước ven biển để nuôi trồng thủy sản biển chưa đáng kể; khung pháp lý phục vụ cho thuê, giao khoán mặt nước ven biển vào nuôi trồng thủy sản chưa rõ ràng, còn nhiều bất cập; chính sách khuyến khích đầu tư, phát triển công nghệ và xây dựng kết cấu hạ tầng cho các vùng nuôi trồng tập trung chưa nhiều, do vậy người nuôi trồng gặp nhiều khó khăn trong tổ chức sản xuất, kiểm soát dịch bệnh và phòng tránh thiên tai.
Về công nghiệp chế biến thủy sản ven biển
Đến nay, cả nước đã có tổng số hơn 470 cơ sở - doanh nghiệp chế biến thủy sản. Trong đó, 248 cơ sở - doanh nghiệp (chiếm gần 53%) đã đạt tiêu chuẩn của thị trường Liên minh châu Âu (EU) - một thị trường khó tính nhất thế giới; trên 300 cơ sở - doanh nghiệp được Hàn Quốc công nhận tiêu chuẩn chất lượng... Hiện hàng thủy sản chế biến Việt Nam đã có mặt trên 140 nước và vùng lãnh thổ trên thế giới, có chỗ đứng vững chắc ở các thị trường lớn như Nhật Bản, EU và Bắc Mỹ. Để đạt mục tiêu chiến lược đến năm 2020 Việt Nam trở thành quốc gia mạnh về kinh tế biển, làm giàu từ biển, ngành chế biến thủy sản nói chung và chế biến thủy sản biển phải phát huy đầy đủ vị trí, vai trò của mình trong việc tạo đầu ra tốt nhất cho các hoạt động đánh bắt và nuôi trồng thủy sản, gắn ngành thủy sản với thị trường tiêu thụ trong và ngoài nước, từ đó tạo động lực thúc đẩy toàn ngành khai thác tối đa các tiềm năng về nguồn lực sẵn có mà biển đã tạo ra.
Phát triển nghề muối (diêm nghiệp) ven biển
Trong những năm qua cả nước có 20 tỉnh, thành ven biển phát triển hoạt động sản xuất muối biển với tổng diện tích hơn 12 nghìn héc-ta và sản lượng bình quân đạt từ 800 nghìn tấn đến 1,2 triệu tấn muối/năm, tạo việc làm cho hơn 90 nghìn lao động. Hiện nay, ngành muối Việt Nam đang triển khai các dự án xây dựng các cánh đồng muối công nghiệp, đổi mới công nghệ sản xuất muối, nhất là công nghệ sản xuất muối sạch, nhằm thực hiện được mục tiêu đến năm 2020 đạt 2 triệu tấn, trong đó các đồng muối công nghiệp bảo đảm từ 53% đến 67% tổng sản lượng muối cả nước. Ngành muối đang kêu gọi các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào các dự án đầu tư đồng muối công nghiệp để sản xuất, chế biến, tiêu thụ muối sạch. Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đang đẩy mạnh cổ phần hóa toàn bộ các doanh nghiệp nhà nước trong ngành muối; tích cực nghiên cứu xây dựng chính sách ngành muối để bảo đảm tái sản xuất, thu nhập đủ sống cho diêm dân, trên cơ sở đó khuyến khích họ gia tăng sản xuất muối nhằm đáp ứng đủ nhu cầu muối của nhân dân và các ngành khác của nền kinh tế, hạn chế tình trạng thiếu ổn định về cung cầu muối ăn.
Phát triển trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp vùng ven biển
Có thể nói, sản xuất nông nghiệp truyền thống không phải là lợi thế và không phải là hướng chính, lâu dài của vùng ven biển. Vậy nên, Nhà nước cần có chiến lược giúp nông dân các vùng này chuyển sản xuất nông nghiệp truyền thống sang các lĩnh vực ngành nghề khác có hiệu quả hơn và phù hợp với lợi thế, tiềm năng. Cho đến nay quá trình chuyển đổi diễn ra còn chậm và thiếu quy hoạch, chính sách phù hợp nên kết quả chưa thật sự cao.
Về lâm nghiệp (rừng ngập mặn) ven biển có ý nghĩa bảo vệ môi trường, tạo đa dạng sinh học ven biển, chống bão, gió và cát bay (sa mạc hóa), chống xói lở... Nhưng, những năm vừa qua, do chạy theo đánh bắt và nuôi trồng thủy sản ven bờ quá mức mà người dân sinh sống ở ven biển các vùng này đã chặt phá và hủy hoại các khu rừng ngập mặn ven biển. Do vậy, cùng với chuyển hướng phát triển nông nghiệp và thủy sản các vùng ven biển như đã đề cập ở trên, cần chú trọng tái tạo lại và phát triển thêm các khu rừng ngập mặn ven biển để giữ vững môi trường tự nhiên và đa dạng sinh học vốn có, từ đó bảo đảm sự phát triển bền vững.
3 - Một số định hướng về giải pháp phát triển nông nghiệp ven biển
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay, cần phải xem xét, đánh giá đúng lợi thế của vùng kinh tế biển, ven biển ở các tỉnh có biển, đồng thời đặt trong định hướng chiến lược kinh tế - xã hội của từng vùng để lựa chọn giải pháp phù hợp và có hiệu quả cao nhất. Cụ thể chúng tôi xin đề xuất một số gợi mở sau:
Thứ nhất, phát triển nông nghiệp ven biển nên hướng vào ngành thủy sản nuôi trồng và đánh bắt. Đối với những tỉnh có lợi thế tự nhiên mạnh về kinh tế thủy sản, thì tiến hành quy hoạch phát triển thủy sản biển, bao gồm cả đánh bắt và nuôi trồng, đầu tư đủ mạnh vào xây dựng kết cấu hạ tầng cứng phục vụ cho hoạt động đánh bắt, nuôi trồng và chế biến hải sản, như:
- Hoàn chỉnh các cảng thủy sản ven biển có điều kiện tập trung khối lượng sản phẩm đánh bắt lớn.
- Xây dựng một hệ thống chợ thủy sản ở các vùng trọng điểm đánh bắt và nuôi trồng kết hợp với thúc đẩy phát triển hệ thống chế biến sản phẩm thủy sản, hình thành các trung tâm tiêu thụ lớn của các vùng nuôi trồng tập trung (mô hình chợ thủy sản đầu mối).
- Quy hoạch và đầu tư xây dựng các khu vực tránh bão cho ngư dân, đặc biệt những vùng có gió bão lớn từ Nam Trung Bộ trở ra phía Bắc và những tỉnh có mật độ tàu thuyền đánh cá cao.
- Xây dựng các công trình thủy lợi cung cấp nước sạch, xử lý nước thải của vùng nuôi trồng thủy sản tập trung và hướng dẫn cho người dân, doanh nghiệp phát triển nuôi trồng thủy sản kiểu công nghiệp.
- Xây dựng các công trình cung cấp điện hạ thế, hệ thống đường giao thông tiếp cận với các vùng nuôi tập trung (thường khoảng từ 50 ha trở lên).
- Quy hoạch phát triển các hoạt động dịch vụ cho đánh bắt và nuôi trồng thủy sản theo định hướng đã xác định...
Thứ hai, phát triển nghề muối đáp ứng nhu cầu trong nước và tiến tới xuất khẩu. Muốn vậy, trong thời gian tới, cần tập trung:
- Nghiên cứu bổ sung các chính sách về đầu tư, khoa học và công nghệ, đào tạo nhân lực,
xúc tiến thương mại và hỗ trợ cho ngành muối. Cụ thể là tạo điều kiện thuận lợi cho diêm dân tiếp cận các nguồn vốn tín dụng, áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật và tăng tỷ lệ hỗ trợ của Nhà nước cho người dân thông qua đầu tư kết cấu hạ tầng, đào tạo, xúc tiến thương mại.
- Tiến hành rà soát, quy hoạch lại các đồng muối và xây dựng đề án chuyển đổi những đồng muối không hiệu quả, khả năng cạnh tranh thấp sang phát triển ngành, nghề khác, tạo cơ hội cho người dân ở vùng muối chuyển nghề, tiếp cận việc làm có thu nhập tốt hơn.
- Thực hiện đầu tư dứt điểm những dự án nâng cấp, cải tạo các vùng sản xuất muối thuộc nhóm C đã có quyết định đầu tư từ năm 2000, 2001, nhưng còn kéo dài đến nay tại vùng ven biển phía Bắc và đồng bằng sông Cửu Long.
- Nghiên cứu xây dựng một số khu công nghiệp hóa chất để sử dụng nguồn nguyên liệu muối có sản lượng lớn và chất lượng cao ở ven biển các tỉnh từ Đà Nẵng đến Sóc Trăng nhằm mục đích đáp ứng nhu cầu phát triển công nghiệp trong tương lai.
(1) Nông nghiệp được hiểu theo nghĩa rộng gồm: trồng trọt, chăn nuôi, lâm nghiệp, thủy sản và nghề muối
Tuy-ni-di: Thủ tướng Gan-nu-si công bố nội các mới  (28/01/2011)
"Bão" tài chính toàn cầu có thể ngăn chặn được  (28/01/2011)
Tăng cường tuyên truyền công tác dân tộc, văn hóa, thể thao và du lịch vùng đồng bào dân tộc thiểu số  (28/01/2011)
Năm mươi năm quan hệ Việt Nam - Cu-ba: Thành tựu và triển vọng  (27/01/2011)
Những bài học trong công tác phòng, chống HIV/AIDS  (27/01/2011)
Về vấn đề đào tạo và sử dụng nhân tài ở nước ta hiện nay  (27/01/2011)
- Ngành y tế với công tác chăm sóc, bảo vệ và phát huy vai trò người cao tuổi trong giai đoạn hiện nay
- Quan điểm, chỉ dẫn của Chủ tịch Hồ Chí Minh về công tác tuyên truyền, vận động quần chúng nhân dân - Một số vấn đề đặt ra đối với việc vận dụng, phát triển trong kỷ nguyên mới của đất nước
- Ba đột phá chiến lược trong mô hình tăng trưởng mới của Việt Nam
- Mô hình tổ hợp công nghiệp quốc phòng và việc xây dựng tổ hợp công nghiệp quốc phòng ở Việt Nam trong tình hình mới
- Trách nhiệm xã hội doanh nghiệp trong tiến trình chuyển đổi năng lượng công bằng ở Việt Nam
-
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Cuộc chiến đấu bảo vệ Thành cổ Quảng Trị năm 1972 - khát vọng độc lập, tự do của dân tộc Việt Nam -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Cách mạng Tháng Tám năm 1945 - Bước ngoặt vĩ đại của cách mạng Việt Nam trong thế kỷ XX -
Quốc phòng - An ninh - Đối ngoại
Chiến thắng Điện Biên Phủ - Bài học lịch sử và ý nghĩa đối với sự nghiệp đổi mới hiện nay -
Kinh tế
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa : Quan niệm và giải pháp phát triển -
Chính trị - Xây dựng Đảng
Đổi mới tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị “tinh - gọn - mạnh - hiệu năng - hiệu lực - hiệu quả” theo tinh thần định hướng của Đồng chí GS, TS, Tổng Bí thư Tô Lâm