TCCS - Trải qua 50 năm, quan hệ Việt Nam - Cu-ba đã được hình thành và thử thách trong những thời khắc khó khăn nhất của lịch sử hai nước - thời kỳ đấu tranh giành độc lập, cùng phải chống lại đế quốc hùng mạnh nhất - đế quốc Mỹ. Tuy nhiên, hiện nay, trong bối cảnh hòa bình và phát triển, mong muốn của nhân dân và lãnh đạo hai nước tiếp tục duy trì, củng cố và phát triển quan hệ đặc biệt này lên một tầm cao mới cũng đang phải đối mặt với không ít những thách thức trên cả phương diện chủ quan lẫn khách quan.

Những chặng đường lịch sử - cội nguồn của mối quan hệ đặc biệt

Sau khi cách mạng Cu-ba thành công (ngày 1-1-1959), ngày 2-12-1960, Cộng hòa Cu-ba đã thiết lập quan hệ ngoại giao đầy đủ với Việt Nam Dân chủ cộng hòa (VNDCCH). Đây là một sự kiện có ý nghĩa hết sức đặc biệt không chỉ đơn thuần trong quan hệ hai nước mà cả trong đời sống quốc tế đương đại. Bởi lẽ, vào thời điểm đó, chỉ có một số ít các quốc gia trên thế giới công nhận và thiết lập quan hệ ngoại giao với VNDCCH. Cu-ba là nước Mỹ La-tinh duy nhất lúc đó, bất chấp khoảng cách địa lý và hoàn cảnh khó khăn, đã đến với nhân dân Việt Nam với tư cách một người bạn chân thành, một người đồng chí tin cậy nhất, sẵn sàng chia sẻ với chúng ta theo tinh thần qua câu nói nổi tiếng của Chủ tịch Phi-đen Ca-xtrô: “Vì Việt Nam, Cu-ba sẵn sàng hiến dâng cả máu của mình”. Sự kiện này còn có ý nghĩa to lớn hơn trong bối cảnh toàn bộ Mỹ La-tinh đang chịu sự chi phối và bị coi là khu vực “sân sau” của Mỹ. Cu-ba cũng là nước Mỹ La-tinh đầu tiên trên thế giới công nhận Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam (năm 1962) và thành lập ủy ban toàn quốc đoàn kết với nhân dân miền Nam Việt Nam (năm 1963); là một trong những nước đầu tiên thiết lập quan hệ ngoại giao với Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam và cũng là nước đầu tiên đặt “Đại sứ quán trong rừng” ở Tây Ninh (năm 1969) v.v.. Nhân dân Cu-ba đã kề vai sát cánh với nhân dân Việt Nam trong suốt chặng đường chống đế quốc Mỹ xâm lược. Dưới tác động của Cu-ba, một mặt trận đoàn kết ủng hộ Việt Nam đã hình thành và phát triển rộng khắp toàn Mỹ La-tinh, thậm chí đã gây tác động không nhỏ tới cả nhân dân Mỹ và góp phần không nhỏ vào thành công của dân tộc Việt Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước vĩ đại.

Sau khi Hiệp định Pa-ri được ký kết, Chủ tịch Phi-đen Ca-xtrô đã sang thăm chính thức Việt Nam, ông cũng là vị lãnh tụ nước ngoài duy nhất tới vùng giải phóng Quảng Trị (tháng 9-1973). Chính phủ Cu-ba đã quyết định viện trợ không hoàn lại cho Việt Nam 5 công trình kinh tế và phúc lợi xã hội với tổng giá trị khoảng 80 triệu USD. Cũng trong chuyến thăm lịch sử này, Chính phủ Cu-ba cũng quyết định chi hơn 6 triệu USD để mua thiết bị hiện đại từ Nhật Bản và cử một số sĩ quan, chuyên viên quân sự về cầu đường sang Việt Nam tham gia cùng bộ đội Trường Sơn mở rộng đường mòn Hồ Chí Minh để chuẩn bị cho trận đánh cuối cùng của chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử (1). Cu-ba cũng là nước có vai trò rất quan trọng trong việc vận động các nước Mỹ La-tinh (12/19 nước ủng hộ, không một nước nào bỏ phiếu chống) ủng hộ Việt Nam gia nhập Liên hợp quốc tại Khóa họp 32 Đại hội đồng Liên hợp quốc năm 1977. Trong suốt thập niên 80 thế kỷ XX, khi cả hai nước phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, Cu-ba cũng là nước Mỹ La-tinh duy nhất còn lại luôn kề bên Việt Nam cùng chống lại chính sách bao vây, cấm vận của Mỹ.

Khoảng cách địa lý quá xa đã không còn ý nghĩa trong sự hình thành và phát triển nhanh chóng mối quan hệ gắn bó, thủy chung giữa Việt Nam và Cu-ba. Điều này chỉ có thể lý giải bởi một số lý do: Một là, hoàn cảnh tương đồng của hai nước cùng chống một kẻ thù là đế quốc Mỹ (đồng minh “tự nhiên”). Hai là, đồng cảm về lý tưởng khi cả hai nước cùng hướng tới sự nghiệp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Ba là, tình cảm chân thành mà nhân dân và lãnh tụ hai nước dành cho nhau trong quá trình cùng sống và chiến đấu. Một thứ tình cảm hết sức “vi diệu” đã nảy sinh giữa hai dân tộc mà bất cứ một lý thuyết nào về quan hệ quốc tế cũng không thể giải thích nổi.

Thời điểm tháng 2-1994, khi Mỹ xóa bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam, hoàn cảnh của ta và Cu-ba giờ đây đã có sự khác biệt không hề nhỏ. Trên con đường đa phương hóa, đa dạng hóa, Việt Nam mau chóng mở rộng quan hệ với các nước Mỹ La-tinh (hiện nay Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với 27/33 quốc gia Mỹ La-tinh, thiết lập thêm 5 đại sứ quán ngoài Cu-ba và Mê-hi-cô có từ trước). Trong khi đó, Cu-ba vẫn tiếp tục bị Mỹ bao vây, cấm vận. Sự khác biệt quan trọng hơn cả vào thời điểm hiện tại là những thay đổi bên trong mỗi nước. Cu-ba vẫn chưa ra khỏi “thời kỳ đặc biệt” và cũng chỉ mới bắt đầu có những biện pháp cải cách kinh tế - xã hội nhằm đối phó với tình hình khó khăn hiện tại. Việt Nam đã trải qua giai đoạn đầu của đổi mới và đang đẩy nhanh tiến độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Trước những biến động đó, lãnh đạo hai nước vẫn nỗ lực duy trì mối quan hệ đặc biệt đã được kiểm chứng qua thời gian. Bởi lẽ, cả hai dân tộc đều hiểu sự cần thiết phải gìn giữ những tình cảm vô giá đã có. Hai nước tiếp tục duy trì trao đổi đoàn cấp cao như các chuyến thăm Cu-ba của Chủ tịch nước Lê Đức Anh (tháng 10-1995, nhân dịp dự Hội nghị cấp cao Phong trào Không liên kết); Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu (tháng 7-1999); Chủ tịch nước Trần Đức Lương (tháng 11-2004); Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn An (tháng 3-2006); Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết (tháng 9-2006); đặc biệt là chuyến thăm của Tổng Bí thư Nông Đức Mạnh (vào đầu tháng 6-2007) và mới đây nhất là chuyến thăm Cu-ba của Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng (từ ngày 5 đến ngày 8-9-2010). Chủ tịch Phi-đen Ca-xtrô đã tới Việt Nam 2 lần (năm 1995 và 2003) dù tình trạng sức khỏe không được tốt. Chủ tịch Quốc hội Ri-các-đô A-la-con đã thăm Việt Nam (tháng 6-2007). Một cơ chế tham khảo chính trị định kỳ hằng năm giữa Bộ Ngoại giao hai nước đã được thiết lập nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho sự phối hợp, hợp tác chặt chẽ và ủng hộ lẫn nhau tại các diễn đàn đa phương, các tổ chức quốc tế. Cu-ba tiếp tục là địa chỉ hàng đầu trong danh mục các nước nhập khẩu ở khu vực Mỹ La-tinh của Việt Nam. Trao đổi kinh tế thương mại giữa hai nước đạt trên 300 triệu USD (năm 2007) và 497 triệu USD (năm 2008)(2). Trước khó khăn hiện nay mà Cu-ba đang phải gánh chịu, Chính phủ Việt Nam quyết định tiếp tục hỗ trợ cho Cu-ba 400.000 tấn gạo trong năm 2010. Trong bối cảnh khủng hoảng kinh tế toàn cầu, hai nước vẫn tiếp tục thực hiện nhiều dự án, như “Phát triển sản xuất lúa quy mô hộ gia đình giai đoạn 3”, “Hợp tác hỗ trợ Cu-ba phát triển ngô và đậu tương” v.v..

Chính cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu từ năm 2008 đã đánh dấu một giai đoạn mới trong quan hệ kinh tế giữa Việt Nam và Cu-ba. Nhiệm vụ trọng tâm của cả hai nước đều là tập trung phát triển kinh tế nhưng các nguồn lực của đôi bên giờ đây đang có sự thay đổi. Để thực hiện nhiệm vụ này, cả hai nước đều phải mở rộng quan hệ để tận dụng mọi nguồn lực bên ngoài. Hiệu quả hợp tác trở thành thước đo cho hầu hết các mối quan hệ trong đời sống quốc tế và đương nhiên quan hệ Việt Nam - Cu-ba cũng không thể không theo chuẩn mực này. Chính điều đó bắt buộc phải có sự đổi mới trong quan hệ hai nước thì mới có thể đưa mối quan hệ đặc biệt này tiếp tục phát triển.

Những thách thức thời mở cửa

Ngay từ những năm cuối của thế kỷ XX, quan hệ Việt Nam - Cu-ba đã phải đối mặt với rất nhiều thách thức đến từ chính quá trình đổi mới của hai nước cũng như quá trình toàn cầu hóa. Cuộc khủng hoảng kinh tế toàn cầu từ năm 2008 lại càng làm sâu sắc thêm những thách thức đó.

Trước hết, xét về tổng thể, quá trình đổi mới ở Việt Nam và Cu-ba diễn ra khác nhau về cả nội dung lẫn hình thức, vì thế những nhiệm vụ mà hai nước phải giải quyết cũng khác nhau. Thêm nữa, hoàn cảnh hiện tại của hai nước cũng có những khác biệt. Việt Nam đang trong quá trình hội nhập quốc tế ngày một sâu rộng, trong khi Cu-ba vẫn tiếp tục bị Mỹ bao vây, cấm vận. Chính sự khác biệt này đã đặt quan hệ Việt Nam - Cu-ba trước những khó khăn không hề nhỏ. Biểu hiện cụ thể là:

Sự chênh lệch về phát triển cũng như những khác biệt trong các mục tiêu phát triển hiện nay đang dần trở thành rào cản đối với quan hệ song phương. Hệ quả của sự khác biệt này thể hiện khá rõ qua giá trị thâm hụt thương mại đang tăng dần theo từng năm. Việt Nam hiện chỉ nhập khẩu từ Cu-ba khoảng 1 - 3 triệu USD trong tổng giá trị trao đổi thương mại hơn 400 triệu USD hằng năm. Khả năng thanh toán chậm và yếu của Cu-ba hiện nay dễ gây tâm lý chán nản, ngại khó đối với doanh nghiệp Việt Nam. Đổi mới cơ chế cũng như mở rộng các lĩnh vực hợp tác đang là nhiệm vụ cấp bách đối với lãnh đạo hai nước.

Khoảng cách địa lý là thách thức không nhỏ trong quan hệ thương mại Việt Nam - Cu-ba. Nhìn chung, Mỹ La-tinh vẫn là một thị trường tuy rất hấp dẫn đối với Việt Nam nhưng lại rất khó thâm nhập, cạnh tranh bởi sự “khó tính” của nó cũng như những chi phí vận chuyển quá lớn. Việt Nam cũng không thể tiếp tục đòi hỏi Cu-ba phải dành cho mình những ưu đãi trong so sánh với các bạn hàng khác. Bởi lẽ, trong thời gian tới, Cu-ba chắc chắn sẽ mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế - thương mại với nhiều đối tác hơn và ưu tiên hơn trong các mối quan hệ hợp tác với các nước láng giềng. Ngay trong các mối quan hệ thương mại với các nước Mỹ La-tinh, trong một số lĩnh vực, như dầu khí chẳng hạn, các doanh nghiệp Việt Nam nhận thấy hiệu quả hợp tác với Cu-ba không phải bao giờ cũng chiếm ưu thế (trong so sánh với Vê-nê-xu-ê-la là ví dụ).

Thách thức tiếp theo đối với quan hệ hai nước đến từ những biến động của tình hình thế giới và khu vực. Những nguy cơ, đặc biệt là những nguy cơ phi truyền thống như thiên tai, dịch bệnh, tội phạm xuyên quốc gia v.v.., mà mỗi nước đang phải đối mặt hiện rất phức tạp và đòi hỏi những nguồn lực hỗ trợ từ nhiều phía, trong khi nguồn nội lực của cả hai lại rất hạn chế. Các mối quan hệ chồng chéo, đa dạng mà hai bên đang có đôi khi cũng tác động đến sự phát triển quan hệ song phương. Trong bối cảnh hai nước ngày càng tham gia nhiều hơn tại các diễn đàn, cơ chế đa phương, việc trao đổi thông tin kịp thời để có sự đồng cảm, tin cậy và chia sẻ cũng đang là đòi hỏi cấp bách cần giải quyết đối với lãnh đạo và nhân dân hai nước.

Việc thông tin, tuyên truyền về nhau nhằm giáo dục các thế hệ kế cận trong việc gìn giữ, duy trì và phát triển mối quan hệ đặc biệt giữa hai nước luôn là vấn đề quan trọng. Trong chuyến thăm Cu-ba tháng 9-2009, Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết và Chủ tịch Ra-un Ca-xtrô đã thống nhất năm 2010, kỷ niệm 50 năm quan hệ ngoại giao Việt Nam - Cu-ba, hai nước sẽ tổ chức nhiều hoạt động sâu rộng, thiết thực để nhân dân, nhất là thế hệ trẻ hiểu rõ hơn về quan hệ đặc biệt Việt Nam - Cu-ba, nhằm vun đắp tình hữu nghị Việt Nam - Cu-ba ngày càng phát triển bền chặt.

Nâng cao hiệu quả hợp tác, đưa quan hệ hợp tác đi vào chiều sâu đang là nhiệm vụ hàng đầu đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân hai nước trong giai đoạn hiện nay.

Quan hệ đặc biệt không ngừng phát triển

Trong 50 năm qua, lãnh đạo và nhân dân Việt Nam - Cu-ba luôn nhận thức về tầm quan trọng của quan hệ hai nước, luôn coi đây là tài sản vô giá của hai dân tộc. Mặc dù đang phải đối mặt với muôn vàn khó khăn, thách thức nhưng chúng ta có nhiều lý do để khẳng định quan hệ Việt Nam - Cu-ba không bao giờ ngừng phát triển.

Trước hết và quan trọng nhất, đó chính là quyết tâm củng cố và tăng cường quan hệ của lãnh đạo và nhân dân hai nước trong mọi biến cố của lịch sử. Quá trình phát triển của mối quan hệ đặc biệt trong 50 năm qua đã chứng minh điều này. Trong khuôn khổ chuyến thăm hữu nghị Cu-ba (tháng 9-2010), Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Phú Trọng khẳng định: “Lập trường nhất quán của Việt Nam ủng hộ sự nghiệp cách mạng chính nghĩa của nhân dân Cu-ba anh em; đồng thời, quyết tâm làm hết sức mình để không ngừng củng cố, phát triển mở rộng quan hệ đoàn kết anh em, hợp tác toàn diện; coi đó là ưu tiên hàng đầu trong chính sách đối ngoại của Việt Nam”(3). Thay mặt nhân dân Cu-ba, Chủ tịch Ra-un Ca-xtrô cũng nhấn mạnh: “Quan hệ Việt Nam - Cu-ba, được Chủ tịch Hồ Chí Minh và Phi-đen khởi xướng thiết lập cách đây 50 năm thực sự là mối quan hệ trong sáng, thủy chung, một mẫu mực của quan hệ giữa hai dân tộc cùng có chung lý tưởng cách mạng mà các thế hệ hôm nay và mai sau có trách nhiệm tiếp tục vun đắp”(4).

Thứ hai, trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay, Việt Nam và Cu-ba lại càng cần phải thúc đẩy quan hệ lên một tầm cao mới bởi đó chính là lợi ích cần thiết của cả hai. Trong lĩnh vực kinh tế - thương mại cả hai bên vẫn là những thị trường quan trọng, đầy tiềm năng của nhau. Hơn thế, đối với Việt Nam, Cu-ba là “cầu nối” hết sức quan trọng và tin cậy để Việt Nam có thể tiến bước vào thị trường Mỹ La-tinh. Đối với Cu-ba, Việt Nam giờ đây không chỉ là “cầu nối” quan trọng để Cu-ba mở rộng quan hệ với ASEAN mà còn với cả khu vực châu Á - Thái Bình Dương.

Thứ ba, từ nhận thức về sự cần thiết phải tăng cường quan hệ, lãnh đạo và nhân dân hai nước đã có những hoạt động thiết thực và cụ thể để hiện thực hóa ước muốn trên.

Thứ tư, Việt Nam và Cu-ba có chung một lý tưởng và vì thế cũng vẫn đang phải đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu và hành động chống phá của không ít các thế lực thù địch. Đoàn kết giữa hai dân tộc vẫn là nguồn lực hết sức quan trọng giúp hai dân tộc hóa giải các hoạt động chống phá của kẻ thù.

Thứ năm, tăng cường quan hệ hợp tác Việt Nam - Cu-ba hoàn toàn phù hợp với xu thế toàn cầu hóa, xu thế hòa bình, hợp tác để phát triển trên bình diện toàn cầu hiện nay. Hợp tác hai nước càng chặt chẽ, toàn diện, càng tạo điều kiện giúp hai nước có được vị thế có lợi nhất trên trường quốc tế.

Như vậy, cho dù hoàn cảnh có thay đổi thế nào, chúng ta vẫn tin tưởng quan hệ Việt Nam - Cu-ba luôn phát triển và ngày càng đem đến hiệu quả hơn cho cả hai dân tộc./.
 
-------------------------------------------------

(1) Valdés Vivo Raul (năm 2009): Những người Cu-ba trên đường Hồ Chí Minh, Tối mật, Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội, tr 214

(2) Xem: http://vovnews.vn/Home/Thúc-đẩy-quan-hệ Việt-Nam-Cu-ba-sang-giai-đoạn-mới-cao-hơn/ 20109/154040.vov

(3) Xem: http://vovnews.vn/Home/Thúc-đẩy-quan-hệ-Việt-Nam-Cu-ba-sang-giai-đoạn-mới-cao-hơn/ 20109/154040.vov

(4) Xem: http://vovnews.vn/Home/Mối-quan-hệ-Việt-Nam-Cu-ba-mãi-trong-sáng-thủy-chung/20109/ 154090.vov