TCCS - Để đưa đất nước cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020 như Nghị quyết Đại hội XI của Đảng đã đề ra yêu cầu cần có một hệ quan điểm và tư duy mới về khoa học và công nghệ (KH-CN); tháo gỡ các “điểm nghẽn” cản trở; dành ưu tiên và tập trung mọi nguồn lực để phát triển KH-CN làm động lực quan trọng nhất trong phát triển lực lượng sản xuất hiện đại để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH).

Trong sự nghiệp xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước, Đảng ta đã sớm có quan điểm định hướng và chỉ đạo đúng đắn về vị trí, vai trò của KH-CN. Văn kiện Đại hội III của Đảng đã xác định: cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật là một cuộc cách mạng then chốt. Sau ngày đất nước thống nhất, văn kiện các đại hội IV, V, VI, VII của Đảng cũng luôn xác định KH-CN là nền tảng và động lực phát triển kinh tế - xã hội. Đặc biệt, sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới (năm 1996), Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VIII đã thông qua Nghị quyết về “Định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhiệm vụ đến năm 2000”. Lần đầu tiên KH - CN cùng với giáo dục và đào tạo được coi là quốc sách hàng đầu và gắn với phát triển kinh tế tri thức.

Sau 16 năm Nghị quyết Hội nghị Trung ương 2 khóa VIII đi vào cuộc sống, KH-CN nước ta đã có bước tiến dài trong xây dựng và phát triển tiềm lực, đạt được nhiều thành tựu quan trọng, đóng góp thiết thực vào sự phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, cải thiện an sinh xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống, góp phần đưa nước ta từ một nước kém phát triển gia nhập nhóm nước có thu nhập trung bình. Chúng ta đã căn bản hoàn thành việc xây dựng nền tảng pháp lý cho hoạt động KH-CN với một hệ thống gồm 8 đạo luật chuyên ngành, bắt đầu từ Luật Khoa học và công nghệ (năm 2000) và kết thúc là Luật Đo lường (năm 2011). Cả nước đã có hơn 1.600 tổ chức KH-CN thuộc mọi thành phần kinh tế, hơn 62.000 cán bộ nghiên cứu chuyên nghiệp, trong đó có hàng chục nghìn người có trình độ tiến sĩ và thạc sĩ. Cộng đồng khoa học nước ta có thể tự hào về những thành tựu khoa học đã góp phần đưa Việt Nam trở thành quốc gia xuất khẩu gạo, cà phê, hạt tiêu, hạt điều hàng đầu thế giới; xuất khẩu thủy sản hàng đầu khu vực; chúng ta đã tự lực thiết kế và thi công các nhà máy thủy điện, nhiệt điện cỡ lớn, chế tạo thiết bị nâng, hạ siêu trường siêu trọng, làm chủ công nghệ đóng tàu hàng trăm nghìn tấn và dàn khoan tự nâng 90 mét nước, khai thác hiệu quả các vệ tinh viễn thông, có phần mềm an ninh mạng được sử dụng trên 100 quốc gia; tự bảo đảm được nhu cầu vắc-xin tiêm chủng mở rộng và sản xuất được vắc-xin phòng, chống dịch cúm gia cầm... và đang tích cực chuẩn bị xây dựng nhà máy điện hạt nhân đầu tiên ở khu vực. Việt Nam đã trở thành thành viên của WTO, APEC, ASEM, có vị thế cao trên trường quốc tế. Mặc dù tiềm lực kinh tế còn nhỏ bé, đầu tư cho KH-CN còn ở mức thấp nhưng chúng ta đã xây dựng được nền KH-CN cơ bản đáp ứng được những nhu cầu của nền kinh tế trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, từng bước CNH, HĐH.

Tuy nhiên, so với mục tiêu và nhiệm vụ đề ra, KH-CN nước ta chưa phát triển tương xứng với tiềm năng và vị trí là quốc sách hàng đầu, chưa thực sự trở thành động lực mạnh mẽ thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội và khắc phục được tình trạng tụt hậu so với khu vực và thế giới. Tình trạng nói trên do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là do các cấp quản lý chậm đổi mới tư duy, chưa nhận thức đúng vai trò của KH-CN trong phát triển, nhất là trong bối cảnh Việt Nam ngày càng tham gia sâu vào WTO theo lộ trình đã cam kết. Lợi thế tăng trưởng dựa vào xuất khẩu tài nguyên, lao động giá rẻ và tháo gỡ cơ chế cũ lạc hậu đã không còn phát huy tác dụng; môi trường đầu tư và cạnh tranh chưa thuận lợi cho phát triển KH-CN, nguồn lực đầu tư cho KH-CN còn rất hạn chế; công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động KH- CN còn nhiều yếu kém, chưa theo kịp với sự phát triển của KH-CN cũng như sự chuyển đổi của nền kinh tế, cơ chế tài chính lạc hậu và chưa phù hợp với đặc thù của hoạt động KH-CN; chưa có chính sách sử dụng, trọng dụng và đãi ngộ thỏa đáng đội ngũ cán bộ KH-CN, nhất là các nhà khoa học đầu ngành. Tất cả những vấn đề đó đã và đang cản trở sự phát triển của KH-CN nước ta.

Để đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế theo hướng nâng cao chất lượng, hiệu quả và năng lực cạnh tranh, phát triển đất nước nhanh và bền vững, không có con đường nào khác là phải bằng và dựa vào KH-CN, nguồn nhân lực chất lượng cao và phát triển kinh tế tri thức. Trong quá trình xây dựng Đề án “Phát triển khoa học và công nghệ phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế” chuẩn bị trình Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành Trung ương khóa XI, cũng như tiến hành xây dựng Luật Khoa học và công nghệ (sửa đổi) chuẩn bị trình Quốc hội khóa XIII xem xét tại kỳ họp thứ 4, xây dựng Đề án “Đổi mới cơ bản, toàn diện và đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động khoa học và công nghệ” trình Thủ tướng Chính phủ, Bộ Khoa học và Công nghệ đã đề xuất các quan điểm phát triển KH-CN trong thời gian tới bao gồm 5 nội dung:

- Về mặt chính trị, quán triệt chủ trương phát triển KH-CN thực sự là quốc sách hàng đầu, là yếu tố quan trọng nhất bảo đảm thành công của sự nghiệp CNH, HĐH, tái cơ cấu nền kinh tế, đưa đất nước phát triển nhanh và bền vững, bảo đảm an ninh, quốc phòng, nâng cao vị thế quốc gia và giữ vững chủ quyền, độc lập dân tộc.

- Về cơ chế chính sách, bên cạnh việc tiếp tục ban hành các văn bản quy phạm pháp luật để đưa các đạo luật về KH-CN vào cuộc sống; giao quyền tự chủ cao nhất cho các tổ chức KH-CN, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động KH-CN, trong đó khâu đột phá là đổi mới cơ chế tài chính, đồng thời tập trung đổi mới công tác xây dựng kế hoạch, phương thức đầu tư.

- Về phát triển nguồn nhân lực, nhận thức rõ con người là yếu tố quan trọng nhất cho phát triển KH-CN. Nhân lực KH-CN là tài nguyên vô giá của quốc gia, đầu tư cho nhân lực KH-CN và đãi ngộ trí thức là đầu tư cho phát triển bền vững, trực tiếp nâng tầm trí tuệ và sức mạnh của dân tộc, vì vậy phải có hệ thống chính sách ưu đãi và trọng dụng đối với cán bộ khoa học.

- Về tiềm lực vật chất và tài chính, ưu tiên nguồn lực quốc gia cho phát triển KH-CN. Nhà nước có trách nhiệm duy trì mức đầu tư cần thiết, khuyến khích các thành phần kinh tế, đặc biệt là doanh nghiệp, đầu tư cho phát triển KH-CN, tham gia phát triển hạ tầng, nâng cao tiềm lực và năng lực KH-CN quốc gia.

- Về hợp tác quốc tế, chủ động hợp tác và hội nhập quốc tế sâu rộng, có trọng tâm, trọng điểm trong lĩnh vực KH-CN là phương thức quan trọng, hiệu quả để bổ sung nguồn lực, cập nhật hóa tri thức KH-CN tiên tiến của thế giới, nâng cao tiềm lực KH-CN quốc gia.

Từ những nội dung chủ yếu sau đây, đặt ra những mục tiêu mà nền KH-CN Việt Nam phải đạt được trong khoảng 10 năm tới là:

- Về trình độ phát triển KH-CN: Việt Nam sẽ có một nền KH-CN phát triển nằm trong nhóm các nước dẫn đầu ASEAN, một số lĩnh vực KH-CN đạt trình độ tiên tiến thế giới; tiềm lực KH-CN đáp ứng các yêu cầu cơ bản của một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Phát triển đồng bộ khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhân văn, khoa học kỹ thuật và công nghệ.

- Về các chỉ tiêu phát triển: Phát triển và làm chủ các công nghệ nền tảng của các ngành kinh tế then chốt và các lĩnh vực công nghệ cao có ảnh hưởng quyết định đến tốc độ và chất lượng tăng trưởng của nền kinh tế. Đến năm 2020, hoạt động KH-CN thông qua yếu tố năng suất tổng hợp (TFP) đóng góp khoảng 35% mức tăng trưởng của kinh tế; giá trị sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao đạt khoảng 45% trong tổng GDP; tốc độ đổi mới công nghệ, thiết bị đạt 20%/năm; giá trị giao dịch của thị trường KH-CN tăng trung bình 15% - 17%/năm.

- Về nguồn nhân lực: Hình thành đội ngũ cán bộ KH-CN chất lượng cao, trung thực, tận tụy trong khoa học, tâm huyết với đất nước; phát triển các tập thể KH-CN mạnh, các nhà khoa học đầu ngành và tổng công trình sư. Số cán bộ nghiên cứu và phát triển (R&D) chuyên nghiệp đạt mức 11 - 12 người trên một vạn dân. Số lượng các công trình công bố quốc tế tăng trung bình 15% - 20%/năm, tăng nhanh số lượng các sáng chế được bảo hộ trong nước và ở nước ngoài. Phát triển mạnh doanh nghiệp KH-CN.

- Về hoàn thiện cơ chế chính sách: Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về KH-CN cho phù hợp với tình hình phát triển của đất nước, ban hành đồng bộ cơ chế, chính sách đổi mới trong quản lý KH-CN, tạo đột phá trong đổi mới phương thức đầu tư và cơ chế tài chính phát triển KH-CN, trong sử dụng nhân lực và trọng dụng nhân tài KH-CN.

- Về đầu tư cho KH-CN: Bảo đảm duy trì mức đầu tư của Nhà nước cho KH-CN tối thiểu 2% tổng chi ngân sách nhà nước hàng năm, nâng dần mức tổng đầu tư xã hội cho KH-CN đạt 1,5% GDP vào năm 2015 và trên 2% GDP vào năm 2020.

Có ý kiến cho rằng, các chỉ tiêu và mục tiêu nói trên là quá cao và khó đạt được vì từ nay đến năm 2020 chỉ còn 8 năm. Tuy nhiên cần phải lưu ý rằng, một số chỉ tiêu đã được đặt ra trong các văn kiện của Đại hội XI của Đảng (chỉ số TFP và tỷ trọng đóng góp của sản phẩm công nghệ cao và sản phẩm ứng dụng công nghệ cao trong GDP), các chỉ tiêu khác được xác định căn cứ vào đánh giá thực tiễn và kinh nghiệm quốc tế, có đủ cơ sở khoa học và lý luận (về mức đầu tư, tốc độ đổi mới công nghệ, công bố quốc tế,...). Hơn nữa, rất cần đặt mục tiêu cao để cả hệ thống chính trị phải phấn đấu một cách quyết liệt, nếu thực sự mong muốn đất nước ta trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020.

Để đạt được mục tiêu này, vấn đề quan trọng là phải có quyết tâm chính trị lớn và có các giải pháp cụ thể mang tính hành động và có cơ sở khoa học. Cần tập trung vào 6 giải pháp lớn sau đây:

1- Tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng đối với sự nghiệp phát triển KH-CN.

Thực tế giai đoạn vừa qua cho thấy nhiều chủ trương, quyết sách lớn của Đảng và nhà nước chậm được triển khai và không phát huy được hiệu quả do nhiều nguyên nhân, nhưng có nguyên nhân chính là nhận thức của các cấp ủy đảng và các cấp quản lý còn chưa đầy đủ, thậm chí còn xem nhẹ. Ví dụ, hầu hết các địa phương đã không quan tâm đầu tư cho phát triển KH-CN, không dành đủ 2% ngân sách địa phương cho KH-CN theo yêu cầu của Chính phủ, ngay cả kinh phí đầu tư phát triển và kinh phí sự nghiệp khoa học mà Trung ương bố trí cho địa phương cũng thường bị sử dụng sai mục đích, có địa phương sử dụng cho làm đường, đắp đê, xây bệnh viện... Hoặc việc giao cơ chế tự chủ theo quy định của Nghị định số 115/2005/ NĐ-CP cho tổ chức KH-CN, nhiều cấp quản lý cho đến nay vẫn không phê duyệt đề án chuyển đổi của tổ chức KH-CN trực thuộc, không giao tài sản hoặc phân cấp quản lý cán bộ, không kịp thời cấp đăng ký kinh doanh hoặc làm thủ tục miễn thuế cho các tổ chức KH-CN có sản xuất, kinh doanh…

Vì vậy, cần nhận thức lại và nâng cao nhận thức của các cấp ủy đảng và chính quyền về vai trò, vị trí của KH-CN trong sự nghiệp CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế. Phát triển KH-CN là một nhiệm vụ chính trị trọng tâm của tất cả các cấp ủy đảng và chính quyền. Người đứng đầu cấp ủy đảng và chính quyền các cấp chịu trách nhiệm trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo việc phát huy và phát triển KH-CN làm cho kế hoạch ứng dụng và nghiên cứu KH-CN của ngành, địa phương trở thành một cấu phần không thể thiếu của quy hoạch, kế hoạch phát triển ngành và địa phương. Các cấp ủy đảng phải lãnh đạo, chỉ đạo công tác tư tưởng để toàn xã hội hiểu đúng và phát huy vai trò quốc sách hàng đầu của KH-CN.

2- Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, đồng bộ tổ chức, cơ chế quản lý, cơ chế hoạt động KH-CN.

Về tổ chức, tiếp tục thực hiện Nghị định số 115/2005/NĐ-CP về cơ chế tự chủ, tự chịu trách nhiệm của các tổ chức KH-CN công lập và Nghị định số 80/2007/NĐ-CP về doanh nghiệp KH-CN, đồng thời quy hoạch, sắp xếp lại hệ thống tổ chức KH-CN, bảo đảm hợp lý, có trọng tâm, trọng điểm, nâng cao năng lực, hiệu quả hoạt động phù hợp với các mục tiêu và định hướng nhiệm vụ phát triển KH-CN trong từng giai đoạn.

Nâng cao năng lực nghiên cứu cơ bản trong các trường đại học, có cơ chế giao biên chế nghiên cứu chuyên nghiệp cho các trường đại học để hình thành một số trường đại học nghiên cứu, gắn kết chặt chẽ nghiên cứu khoa học với đào tạo và sản xuất, kinh doanh.

Phát triển, nâng cao năng lực hệ thống tổ chức dịch vụ KH-CN, nhất là các tổ chức đánh giá, định giá, giám định về sở hữu trí tuệ, tiêu chuẩn đo lường chất lượng, các sàn giao dịch công nghệ thực và ảo, đáp ứng yêu cầu phát triển thị trường KH-CN.

Về đổi mới cơ chế quản lý, phương thức đầu tư và cơ chế tài chính, cần đổi mới đồng bộ cơ chế quản lý nhiệm vụ KH-CN theo thông lệ và chuẩn mực quốc tế từ khâu xác định nhiệm vụ, tổ chức thực hiện đến đánh giá, nghiệm thu và theo dõi sau nghiệm thu. Tăng cường hoạt động đánh giá độc lập, tư vấn, giám định, phản biện xã hội trong hoạt động KH-CN. Trong đó, kiên quyết đổi mới cơ chế xây dựng kế hoạch và dự toán ngân sách hằng năm đối với các nhiệm vụ KH-CN, bảo đảm phù hợp với đặc thù của hoạt động KH-CN. Chấm dứt tình trạng các nhiệm vụ KH-CN được đề xuất hoặc đặt hàng, được phê duyệt đủ thủ tục mà hàng năm sau mới được giao kinh phí. Quán triệt tư duy là đề tài nghiên cứu được đề xuất, đặt hàng lúc nào thì phải được phê duyệt và cấp kinh phí kịp thời ngay lúc đó, kịp thời giải quyết những vấn đề của cuộc sống.

Tương tự, cần giao thẩm quyền cho Bộ Khoa học và Công nghệ trong việc điều tiết tỷ lệ phân bổ ngân sách khoa học và công nghệ theo nguyên tắc xây dựng kế hoạch ngân sách khoa học và công nghệ trung ương và địa phương phải căn cứ vào kết quả, hiệu quả sử dụng kinh phí. Không để tồn tại tình trạng các địa phương sử dụng không đúng mục đích hoặc không có dự án sử dụng kinh phí KH-CN mà Trung ương lại không thể điều chỉnh được cho những nơi cần kinh phí và có dự án sẵn sàng. Có như thế mới khắc phục được tình trạng đầu tư dàn trải, phân tán, sai mục đích, kém hiệu quả.

Một số điểm mới trong phương thức xây dựng và thực hiện nhiệm vụ KH-CN là chuyển mạnh sang thực hiện cơ chế đặt hàng gắn với trách nhiệm sử dụng kết quả phục vụ phát triển của đất nước, các ngành và các địa phương. Áp dụng cơ chế khoán kinh phí đến sản phẩm KH-CN cuối cùng trên cơ sở đặt hàng, tuyển chọn cạnh tranh, bảo đảm tính khả thi và hiệu quả kinh tế - xã hội. Nhà nước có chính sách mua kết quả nghiên cứu KH-CN để thúc đẩy nghiên cứu, đổi mới sáng tạo và ứng dụng rộng rãi kết quả nghiên cứu khoa học. Áp dụng cơ chế tài chính của quỹ trong cấp phát kinh phí cho nhiệm vụ KH-CN. Khuyến khích tư nhân thành lập hoặc liên kết với Nhà nước thành lập các quỹ đầu tư mạo hiểm đối với hoạt động nghiên cứu phát triển công nghệ mới, công nghệ cao.

Để tăng nhanh nguồn đầu tư xã hội cho KH-CN, Nhà nước phải có quy định bắt buộc các doanh nghiệp nhà nước trích tỷ lệ tối thiểu thu nhập tính thuế hằng năm để đầu tư thành lập quỹ phát triển KH-CN của doanh nghiệp, đồng thời khuyến khích doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế trích một phần thu nhập tính thuế hằng năm để đầu tư thành lập quỹ phát triển KH-CN của doanh nghiệp hoặc đóng góp cho quỹ phát triển KH-CN của địa phương. Có ý kiến cho rằng cần lưu ý tính bình đẳng của doanh nghiệp nhà nước với doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác, cũng như băn khoăn về quyền lợi của doanh nghiệp khi đóng góp cho quỹ của địa phương. Tuy nhiên, doanh nghiệp 100% vốn nhà nước khác với doanh nghiệp khác ở chỗ nó phải chịu sự điều hành toàn diện của Nhà nước, phải thực sự trở thành lực lượng chủ đạo của nền kinh tế, nếu không quan tâm đầu tư cho KH-CN chắc chắn sẽ mất lợi thế cạnh tranh. Còn việc các doanh nghiệp cho đến nay chưa quan tâm trích một phần lợi nhuận trước thuế cho hoạt động KH-CN theo quy định của Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, thì nguyên nhân chính là các doanh nghiệp Việt Nam hầu hết đều là doanh nghiệp nhỏ và siêu nhỏ, có doanh thu rất thấp, nếu trích 10% lợi nhuận trước thuế cũng không đủ để nghiên cứu một vấn đề nhỏ chứ chưa nói đến đổi mới công nghệ sản xuất hay nâng cao chất lượng sản phẩm. Việc cho phép doanh nghiệp đóng góp vào Quỹ phát triển KH-CN địa phương sẽ huy động được nguồn kinh phí lớn từ hàng nghìn doanh nghiệp trên địa bàn và các địa phương có thể tập trung đầu tư lần lượt cho các doanh nghiệp chủ lực đổi mới công nghệ, như vậy các doanh nghiệp này sẽ nộp thuế nhiều hơn, đóng góp cho Quỹ nhiều hơn và các doanh nghiệp khác sẽ được hưởng lợi.

Về quy hoạch phát triển đội ngũ trí thức, đổi mới cơ chế, chính sách quy hoạch, sử dụng và trọng dụng cán bộ KH-CN, cần có chính sách đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng, đãi ngộ, tôn vinh đội ngũ trí thức KH-CN, nhất là chính sách trọng dụng đặc biệt đối với 3 nhóm đối tượng là cán bộ KH-CN đầu ngành, cán bộ KH-CN được giao chủ trì nhiệm vụ quốc gia, cán bộ KH-CN trẻ tài năng. Sở dĩ phải tập trung trọng dụng 3 nhóm đối tượng này vì trong hoàn cảnh khó khăn hiện nay, việc đãi ngộ bằng trả lương cao cho tất cả những người làm khoa học là không thể. Chúng ta không chỉ có hơn 6 vạn người làm nghiên cứu chuyên nghiệp, mà còn có hơn 3 triệu người được đào tạo có trình độ đại học đều có khả năng tham gia hoạt động nghiên cứu và hàng triệu người dân yêu khoa học cũng có cơ hội đóng góp cho khoa học. Vì thế điểm đột phá chính là tạo điều kiện làm việc tốt và môi trường hoạt động khoa học thuận lợi cho giới khoa học, song song với việc trọng dụng và ưu đãi đặc biệt với 3 nhóm đối tượng trên. Cần có tư duy mới là làm thế nào để cán bộ khoa học được sống tốt bằng chính kết quả sáng tạo của mình trong nền kinh tế thị trường, chứ không thể tiếp tục để giới khoa học chịu tiếng là muốn làm đề tài, dự án để có thu nhập.

Bên cạnh đó, cần hoàn thiện hệ thống chức danh, chức vụ KH-CN, ví dụ bổ sung chức danh “Kỹ sư trưởng”, “Tổng công trình sư” cho viên chức KH-CN, tổ chức “Ngày khoa học Việt Nam”, cải tiến hệ thống giải thưởng KH-CN quốc gia, danh hiệu vinh dự Nhà nước cho cán bộ KH-CN.

3- Triển khai các định hướng nhiệm vụ KH-CN có tác động lớn và đóng góp quyết định cho phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh quốc gia.

- Về tăng cường nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu phục vụ hoạch định đường lối, chính sách, quốc phòng, an ninh và mục đích công cộng, cần quan tâm đúng mức nghiên cứu cơ bản có trọng điểm, ưu tiên một số lĩnh vực khoa học tự nhiên mà Việt Nam có lợi thế, giao nhiệm vụ cho khoa học xã hội và nhân văn tập trung tổng kết thực tiễn quá trình đổi mới và phát triển đất nước, nghiên cứu lý luận, dự báo xu hướng phát triển, cung cấp luận cứ phục vụ xây dựng đường lối, chính sách phát triển và bảo vệ đất nước trong giai đoạn mới. Chú trọng các nghiên cứu về mô hình phát triển, tái cơ cấu nền kinh tế, hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; xu thế phát triển của xã hội Việt Nam, con người Việt Nam, văn hóa, dân tộc và tôn giáo ở Việt Nam; nghiên cứu dự báo các xu thế phát triển của khu vực và thế giới, nâng cao vai trò của Việt Nam trong giải quyết các vấn đề khu vực và toàn cầu.

- Về ưu tiên phát triển một số công nghệ tiên tiến, công nghệ cao, công nghệ liên ngành làm đòn bẩy cho CNH, HĐH các ngành, lĩnh vực, cần đẩy mạnh phát triển 2 lĩnh vực Việt Nam có lợi thế, đã có nhiều thành tựu quan trọng và có tầm chiến lược, đó là công nghệ thông tin truyền thông (phần mềm an ninh mạng, phần mềm ứng dụng trong công nghiệp, công nghệ truyền thông kỹ thuật số, tích hợp và khai thác dữ liệu vệ tinh,...) và công nghệ sinh học phục vụ nông nghiệp và y tế. Đồng thời tiếp tục phát triển các công nghệ vật liệu mới, công nghệ chế tạo máy - tự động hóa, công nghệ môi trường, công nghệ năng lượng mới, công nghệ vũ trụ.

4- Tăng cường tiềm lực KH-CN quốc gia.

Ngoài việc phát triển nguồn nhân lực trình độ cao, cần tập trung đầu tư phát triển một số viện KH-CN, trường đại học nghiên cứu mạnh theo mô hình tiên tiến của thế giới. Sớm đưa vào hoạt động có hiệu quả 3 khu công nghệ cao quốc gia tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và Đà Nẵng, đồng thời quy hoạch các khu nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao, khu công nghệ thông tin tập trung của các địa phương, tiếp tục đầu tư cho các phòng thí nghiệm trọng điểm quốc gia, phòng thí nghiệm chuyên ngành, các trung tâm thông tin và thống kê KH-CN, bảo tàng KH-CN.

Phát triển các cơ sở ươm tạo công nghệ, ươm tạo doanh nghiệp KH-CN. Quan tâm đầu tư cho các nhóm nghiên cứu trẻ, tiềm năng từ các trường đại học, viện nghiên cứu làm hạt nhân hình thành hệ thống doanh nghiệp KH-CN khởi nguồn từ kết quả nghiên cứu, hỗ trợ các doanh nghiệp thành lập tổ chức nghiên cứu và phát triển, khuyến khích thành lập các viện nghiên cứu phát triển có vốn đầu tư nước ngoài, các viện nghiên cứu nước ngoài thành lập chi nhánh ở Việt Nam.

5- Phát triển thị trường KH-CN.

Thị trường KH-CN ra đời muộn sau các thị trường khác, rất cần được Nhà nước đầu tư ban đầu cho mạng lưới các tổ chức dịch vụ kỹ thuật, môi giới, chuyển giao, tư vấn, đánh giá và định giá công nghệ, xây dựng các sàn giao dịch KH-CN quốc gia tại Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đà Nẵng liên thông với hệ thống các trung tâm ứng dụng và chuyển giao công nghệ của các tỉnh, thành phố, kết nối với các sàn giao dịch công nghệ khu vực và thế giới.

Song song với xây dựng cơ sở vật chất, cần xây dựng các văn bản pháp quy về đánh giá, định giá tài sản trí tuệ, cho phép chuyển nhượng, góp vốn vào doanh nghiệp bằng tài sản trí tuệ, xây dựng bộ chỉ số thống kê, đo lường kết quả và hiệu quả hoạt động KH- CN của các ngành và địa phương, xây dựng hàng rào kỹ thuật trong thương mại để hỗ trợ phát triển thị trường trong nước, ngăn chặn nhập khẩu các sản phẩm, công nghệ lạc hậu.

6- Hợp tác và hội nhập quốc tế về KH-CN.

Việt Nam đã trở thành thành viên WTO, có quan hệ hợp tác KH-CN với trên 80 quốc gia, vì thế cần xác định rõ đối tác chiến lược trong hợp tác nghiên cứu chung và địa bàn trọng điểm có công nghệ nguồn cần khai thác, chuyển giao, triển khai hợp tác KH-CN tầm quốc gia với các nước mạnh về KH-CN là đối tác chiến lược của Việt Nam. Phát huy tác dụng của mạng lưới đại diện KH-CN Việt Nam ở 17 địa bàn quan trọng thuộc 12 quốc gia phát triển.

Hình thành một số trung tâm nghiên cứu xuất sắc trên cơ sở hợp tác dài hạn giữa các tổ chức nghiên cứu KH-CN của Việt Nam và nước ngoài. Tiếp tục hoàn thiện chính sách, nhất là về đầu tư, đất đai, kết cấu hạ tầng, thủ tục hành chính để thu hút các chuyên gia, nhà KH-CN Việt Nam ở nước ngoài, các chuyên gia, nhà khoa học nước ngoài tham gia hoạt động KH-CN ở Việt Nam.

Vai trò của KH-CN trong nền kinh tế tri thức là yếu tố quyết định, vì thế cần đổi mới mạnh mẽ tư duy trong cả hệ thống chính trị để thúc đẩy KH-CN nước nhà phát triển, góp phần quyết định thành công của sự nghiệp CNH, HĐH và phát triển nhanh, bền vững đất nước, giữ vững quốc phòng, an ninh quốc gia và độc lập, chủ quyền dân tộc./.