TCCSĐT - Sáng 21-12, tại Hà Nội, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn phối hợp với Đại sứ quán Đan Mạch tổ chức Hội nghị tổng kết Chương trình hỗ trợ ngành thủy sản Việt Nam giai đoạn II (FSPS II).

Thúc đẩy sản xuất bền vững, nâng cao thu nhập…

Những năm gần đây, ngành thủy sản Việt Nam phát triển nhanh, sản lượng thủy sản tăng trên 4%/năm trong thập niên cuối thế kỷ XX, tạo ra nhiều sản phẩm, hàng hóa xuất khẩu có giá trị kinh tế cao. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 6,5 tỷ USD năm 2011 cùng với sản lượng thủy sản trên 5 triệu tấn/năm đã góp phần thay đổi cơ cấu kinh tế công, nông nghiệp, dịch vụ của đất nước, thay đổi bộ mặt nông thôn Việt Nam. Sự phát triển của ngành thủy sản cũng góp phần quan trọng vào quá trình xóa đói giảm nghèo, cải thiện sinh kế cho cộng đồng ngư dân ven biển, cải thiện an ninh lương thực và an toàn thực phẩm của đất nước,… vị thế của ngành thủy sản Việt Nam không ngừng được nâng cao trên trường quốc tế.

Thứ trưởng Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Vũ Văn Tám khẳng định: đóng góp hết sức quan trọng vào sự phát triển nhanh và hiệu quả nói trên của ngành thủy sản Việt Nam chính là sự hỗ trợ của các nhà tại trợ và chính phủ các nước, đặc biệt là sự hỗ trợ của Chính phủ Vương quốc Đan Mạch - nhà tài trợ ODA không hoàn lại lớn nhất cho ngành thủy sản Việt Nam.

Ông Tám cho biết, ngay từ năm 1993, sau khi lệnh cấm vận đối với Việt Nam được dỡ bỏ, Đan Mạch là một trong những quốc gia đầu tiên viện trợ cho Việt Nam, trong đó thủy sản là một trong những lĩnh vực ưu tiên nhận được sự viện trợ đó với Dự án Đánh giá nguồn lợi sinh vật biển ở Việt Nam (ALMAV) và Dự án Cải thiện chất lượng và xuất khẩu thuỷ sản (SEAQIP). Rút kinh nghiệm từ việc thực hiện các dự án trên, chính phủ hai nước đã xem xét và quyết định hỗ trợ ngành thủy sản Việt Nam từ phương thức hỗ trợ thông qua các dự án riêng lẻ sang hỗ trợ theo chương trình. Từ đó, Chương trình Hỗ trợ ngành thủy sản Việt Nam giai đoạn I (2001 - 2005 FSPS I) và giai đoạn II (2006 - 2012 - FSPS II) đã được xây dựng và đưa vào thực hiện.

Chương trình Hỗ trợ ngành thủy sản Việt Nam giai đoạn II được triển khai nhằm hỗ trợ các lĩnh vực thủy sản với mục tiêu “các bộ phận dân cư nghèo ở nông thôn tham gia hoạt động nghề cá được hưởng lợi từ sự phát triển kinh tế bền vững của ngành thủy sản”. Để bảo đảm độ rộng khắp trên toàn quốc, FSPS II đã được thực hiện tại 9 tỉnh (sau rút xuống còn 8 tỉnh) ở cả ba miền Bắc, Trung, Nam là Sơn La, Quảng Ninh, Nghệ An, Đắc Lắc, Thừa Thiên -  Huế, Bình Định, An Giang, Bến Tre và Cà Mau. Tại mỗi tỉnh, Chương trình được thực hiện ở những xã nghèo nhất. Sau gần 8 năm thực hiện, Chương trình đạt được thành công trong việc thúc đẩy sản xuất thủy sản bền vững thông qua tăng cường năng lực quản lý của ngành, đa dạng hóa nuôi trồng thủy sản, xây dựng các mô hình đồng quản lý nghề cá, các mô hình sinh kế,… nâng cao thu nhập, hoàn thành mục tiêu đề ra giúp hơn 40.000 người thoát nghèo.

Đại sứ Đan Mạch Giôn Ni-en-xen (John Nielsen) nhận định: gần 20 năm hỗ trợ ngành thủy sản Việt Nam với tổng giá trị hơn 100 triệu USD, Đan Mạch đã góp phần đem lại những đổi thay tích cực trong xóa đói giảm nghèo, đem lại nguồn dinh dưỡng tốt hơn và cơ hội việc làm cho hàng triệu người Việt Nam, trong đó gần 50% là phụ nữ. Đây là dịp quan trọng để Việt Nam và Đan Mạch cùng nhìn lại chặng đường hợp tác đó - sự hợp tác thành công trên nhiều khía cạnh. Trở thành nước xuất khẩu thủy sản đứng thứ ba trên thế giới, đạt doanh thu xuất khẩu thủy sản 6.1 tỷ USD được coi là nền móng để Việt Nam và Đan Mạch cùng bước sang một giai đoạn hợp tác mới - giai đoạn của xây dựng quan hệ đối tác thương mại vì lợi ích của hai nước”.

Bài học kinh nghiệm

Hoàn thành mục tiêu đề ra giúp 40.000 người thoát nghèo, chương trình đã làm thay đổi tư duy nhận thức của nhiều người nghèo vươn lên vượt khó tạo thu nhập ổn định. Tuy nhiên, việc đa dạng hóa sinh kế cho người nghèo là rất cần thiết và phải thường xuyên, lâu dài thì mới có thu nhập ổn định, đặc biệt tại các tỉnh có nhiều bà con dân tộc như các tỉnh Sơn La, Đắc Lắc, An Giang, Bình Định,… Trên thực tế, mỗi vùng, địa phương có đặc thù khác nhau, nhiều hộ nghèo không có các phương tiện sinh sống thuộc sở hữu như ao hồ, ruộng nên sau đợt tập huấn vẫn tham gia làm thêm, làm thuê cho các trang trại, cơ sở nuôi trồng thủy sản. Mặt khác, do ao, ruộng của người nghèo thường bé, đầu vào sản xuất còn ít nên việc tăng thu nhập thời gian đầu còn thấp, cần thời gian một vài năm mới có thể mở rộng sản xuất và tăng thu nhập. Vì vậy, việc tạo ra các mô hình sinh kế khác của Chương trình vẫn là cơ bản đối với số hộ nghèo này.

Chương trình FSPS II đã kết thúc nhưng các kết quả đạt được của Chương trình trong thể chế, khai thác, chế biến và nuôi trồng thủy sản sẽ là cơ sở, nền tảng cho các bước phát triển tiếp theo. Hội nghị đã rút ra những bài học kinh nghiệm sâu sắc nhằm tiếp tục phát huy xây dựng một nền quản lý thủy sản hiện đại và bền vững qua lồng ghép với kế hoạch phát triển hàng năm của ngành. Đó là:

- Về chỉ đạo điều hành: các quy chế, quy định của Chính phủ cũng như nhà tài trợ cần được thực hiện phối hợp thống nhất giữa ủy ban nhân dân tỉnh, ban quản lý cấp tỉnh và lãnh đạo bộ, tổng cục với ban quản lý trung ương trong việc thực hiện các chương trình dự án quốc tế, tạo nên sự xuyên suốt, trôi chảy trong quá trình thực hiện Chương trình dự án.

- Về quản lý: áp dụng có hiệu quả cách thức quản lý dự án quốc tế, minh bạch, rõ ràng và có lộ trình kế hoạch thực hiện. Dự án có nhiều cố vấn quốc tế công tác dài hạn với chuyên môn khác nhau, có kinh nghiệm thực hiện chương trình, dự án quốc tế nên việc tranh thủ học hỏi, nhất là tư duy trong quản lý kết hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam là hết sức cần thiết.

- Về thực hiện Chương trình dự án: việc tổ chức thực hiện cần có sự chuẩn bị về tổ chức, bộ máy nhân sự, thiết lập hệ thống quản lý tài chính đầy đủ, có năng lực ngay từ đầu để xây dựng kế hoạch thực hiện, tiếp nhận vốn cho các hoạt động; chủ động phối hợp các nguồn lực khác nhau để thực hiện đạt được mục tiêu của Chương trình.

- Về sử dụng tư vấn: đối với các vấn đề khó khăn trong quản lý cũng như xây dựng các chính sách, văn bản quy phạm pháp luật, cần phối hợp và sử dụng tư vấn bên thứ ba một cách có hiệu quả.

- Về thích ứng với các thách thức: trong quá trình thực hiện dự án, nhiều thách thức mới xuất hiện do các quy định mới, bổ sung của Chính phủ, hoặc các quy định mới phải áp dụng của các tổ chức quốc tế, các nước có quan hệ về thủy sản với Việt Nam. Các thách thức trong chỉ đạo sản xuất ngoài ý muốn cần phải có những biện pháp, giải pháp cụ thể giải quyết kiềm chế, ngăn chặn phù hợp.

- Về lồng ghép kế hoạch ngân sách: trong lúc nguồn ngân sách Nhà nước có hạn, việc sử dụng ngân sách của Chương trình như là một nguồn ngân sách giải quyết các vấn đề chung phát triển của của ngành. Việc lồng ghép kế hoạch ngân sách hiệu quả giúp cho cơ quan chủ quản giải quyết nhiều vấn đề về xây dựng các chính sách, xây dựng tổ chức trong sản xuất cũng như trong công tác quản lý điều hành.

- Về lợi ích lâu dài: việc chuyển đổi từ viện trợ không hoàn lại sang hỗ trợ mang lại lợi ích lâu dài cho hai bên là một tất yếu. Do vậy, các thành tựu đạt được của Chương trình FSPS II là cơ sở nền tảng để cac đơn vị tự nâng cao tầm hoạt động tiến tới tiếp nhận hỗ trợ thông qua các khoản cho vay ngắn hạn và dài hạn từ Chính phủ hoặc các hoạt động kinh doanh.

Ông Võ Văn Sơn, Giám đốc Chương trình FSPS II khẳng định: vẫn còn có những thách thức về môi trường, về khả năng bị tổn hại do biến đổi khí hậu và nguy cơ bệnh tật trong ngành thủy sản. Vì vậy, sẽ áp dụng các biện pháp duy trì và phát huy kết quả của Chương trình, đầu tư nhiều hơn nữa cho ngành thủy sản, tiếp tục phát triển ngành thủy sản thành ngành kinh tế quan trọng của đất nước. Việc tiếp tục hợp tác thương mại với Đan Mạch sẽ bảo đảm kết nối kinh doanh nhằm duy trì cánh cửa dẫn đến các thị trường đem lại lợi nhuận trên thế giới./.