Tôn giáo là hình thái ý thức xã hội, đồng thời là một thực thể xã hội, một sản phẩm của lịch sử do con người tạo ra, giữ vai trò, vị trí khá quan trọng trong xã hội đương đại và đã được khẳng định trong lịch sử. Ở nước ta, từ khi xuất hiện, tôn giáo luôn giữ vai trò quan trọng trong đời sống chính trị, văn hoá, tinh thần của xã hội, gắn liền với dân tộc và phục vụ lợi ích dân tộc trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước.

Ngày nay, mặc dù xung quanh vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng còn có một số ý kiến khác nhau, nhưng tín ngưỡng và tôn giáo vẫn là nhu cầu tinh thần không thể thiếu của một bộ phận đông đảo quần chúng nhân dân. Tôn giáo vẫn sẽ tiếp tục đồng hành cùng dân tộc và phục vụ lợi ích của dân tộc trên con đường phát triển. Vấn đề đặt ra ở đây là, phải tạo điều kiện cho các tôn giáo phát huy tính tích cực phụng sự Tổ quốc xã hội chủ nghĩa như thế nào?

Tôn giáo trong lòng dân tộc

Ở Việt Nam hiện có 6 tôn giáo lớn đang hoạt động. Có những tôn giáo ngoại nhập như Phật giáo, Thiên chúa giáo, Tin Lành, Hồi giáo, lại có các tôn giáo nội sinh như Phật giáo Hoà Hảo, Cao Đài. Số lượng tín đồ các tôn giáo vào khoảng 20 triệu người, chiếm gần 1/4 dân số cả nước. Ngoài những tôn giáo lớn, ở Việt Nam còn có nhiều loại hình tín ngưỡng khác nhau, như thờ cúng tổ tiên, thờ thần, thờ các vị anh hùng dân tộc, thờ các vị tổ nghề... Dù theo tín ngưỡng, tôn giáo nào, người Việt Nam đều có một tín ngưỡng chung là thờ cúng ông bà, tổ tiên. Dù nội sinh hay ngoại nhập và luôn phải chịu ảnh hưởng từ các áp lực khác nhau, nhưng nhìn chung cộng đồng các tôn giáo ở Việt Nam luôn đồng hành và phục vụ lợi ích quốc gia, dân tộc. Trong quá trình làm lên các giá trị của dân tộc không thể không kể đến đóng góp của tôn giáo. Ở vào bất cứ hoàn cảnh lịch sử nào, dân tộc Việt Nam cũng sẵn sàng đón nhận và đến với tôn giáo một cách hết sức tự nhiên. Điều đó chứng tỏ rằng, các giá trị đạo đức tôn giáo phù hợp với các giá trị đạo đức của người Việt Nam. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, các tôn giáo đã cùng toàn dân tộc tạo dựng những giá trị thiêng liêng của người Việt. Đó là nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc, là truyền thống yêu nước, thương nòi, truyền thống kiên cường, bất khuất đấu tranh chống giặc ngoại xâm, cần cù, sáng tạo trong lao động, sản xuất... Các giá trị thiêng liêng đó là:

Về giá trị văn hoá, trong quá trình định hình phương thức tồn tại của tôn giáo thì các giá trị văn hoá cũng được tạo dựng. Trong văn hoá mỗi dân tộc đều mang dấu ấn tôn giáo, tín ngưỡng (người ta dễ dàng nhận thấy và phân biệt giữa giá trị văn hoá phương Đông với văn hoá phương Tây là nhờ có sắc tố tôn giáo trong các giá trị văn hoá đó). Tuy nhiên, văn hoá tôn giáo chịu chế định bởi văn hoá dân tộc, nên trong văn hoá tôn giáo có yếu tố dân tộc và ngược lại.

Ở Việt Nam, thực tiễn lịch sử chứng minh, các tôn giáo đã góp phần tạo ra và làm phong phú nền văn hoá Việt Nam trên cả hai lĩnh vực: văn hoá vật thể và văn hoá phi vật thể. Đến đâu trên đất nước, người ta đều có thể nhận thấy ở mỗi vùng dân cư có các loại hình văn hoá vật thể (đình chùa, miếu phủ, nhà thờ, đồ cúng tế, hành đạo...) rất khác nhau, đó là do chúng mang dấu ấn văn hoá tôn giáo. Điều đó lý giải tại sao kiến trúc đình, chùa, miếu mạo ở vùng đồng bằng châu thổ sông Hồng khác với kiến trúc chùa chiền của Phật giáo Tiểu thừa của đồng bào Khơ-me Nam bộ; kiến trúc chùa tháp của người Chăm khác với kiến trúc nhà Rông của người Thượng, Tây Nguyên. Kiến trúc nhà thờ Ki-tô giáo, dù mang đậm nét năn hoá châu Âu nhưng vẫn có sự pha trộn nét văn hoá truyền thống dân tộc Việt Nam. Những công trình văn hóa tôn giáo này không chỉ là nơi sinh hoạt tôn giáo đơn thuần mà còn là nơi sinh hoạt văn hoá của các cộng đồng dân cư. Những biểu hiện của văn hoá phi vật thể diễn ra hàng ngày trong các cộng đồng dân cư ở các vùng khác nhau cũng đều mang dấu ấn văn hoá tôn giáo.

Tôn giáo ngoại nhập bắc nhịp cầu giao thoa văn hoá giữa dân tộc ta với các nền văn minh bên ngoài. Phật giáo (cùng với Nho giáo và Đạo giáo) đã góp phần quan trọng đưa văn hoá Trung Hoa, Ấn Độ và truyền bá chữ Nho vào nước ta (một loại chữ viết chủ yếu trong một thời kỳ dài của người Việt Nam). Ki-tô giáo đã đem ánh sáng của nền văn minh châu Âu đến nước ta và góp phần phát minh ra chữ quốc ngữ ngày nay.

Rõ ràng, tôn giáo đã góp phần rất lớn tạo dựng cho nền văn hoá dân tộc những bản sắc đậm đà đầy ấn tượng.

Về giá trị đạo đức xã hội, hết thảy các tôn giáo đều giáo dục con người Việt Nam vươn tới cái thiện. Có thể khẳng định rằng, tôn giáo đã góp phần to lớn tạo dựng các chuẩn mực đạo đức của con người Việt Nam. Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã viết: “Từ xa xưa, dân tộc Việt Nam ta không có tôn giáo theo nghĩa truyền thống của nhiều nước khác. Còn nói tôn giáo thờ cúng, thì mọi người đều thờ cúng ông bà, mọi họ đều thờ cúng tổ tiên, làng thì thờ cúng thành hoàng và các bậc anh hùng cứu nước, các tổ phụ ngành nghề, các danh nhân văn hoá. Từ góc độ văn hoá, tôi thấy đây là một đặc trưng đáng trọng của con người Việt Nam, ở chỗ nó tưởng nhớ những người có công trong việc tạo lập cuộc sống của mọi gia đình và làng xóm”. (1)

Những triết lý cao siêu của cuộc sống đã được Phật giáo (cùng với Đạo giáo, Nho giáo) biến thành một hệ thống các chuẩn mực đạo đức rất thân thuộc với con người Việt Nam. Nó giúp hình thành những quan niệm sống giàu tính nhân văn. Cao Đài và Phật giáo Hoà Hảo thì luôn chủ tâm giúp con người hướng thiện, cứu nhân độ thế ( “tu nhân”, “học Phật”, “ thực hiện tứ ân”...). Thiên chúa giáo và Tin Lành cũng xoay quanh vấn đề dạy con người ta sống công bằng, bác ái, kính chúa, yêu nước.

Xét toàn cục, rõ ràng mục đích của tôn giáo tương đồng và phù hợp với đạo đức con người Việt Nam. Đảng ta khẳng định “Đạo đức tôn giáo có nhiều điều phù hợp với công cuộc xây dựng xã hội mới” (2). Hồ Chí Minh rất trân trọng các giá trị của tôn giáo, Người viết: “Học thuyết của Khổng Tử có ưu điểm của nó là sự tu dưỡng cá nhân. Tôn giáo Giê-su có ưu điểm của nó là lòng nhân ái cao cả. Chủ nghĩa Mác có ưu điểm của nó là phương pháp làm việc biện chứng. Chủ nghĩa Tôn Dật Tiên có ưu đểm: chính sách của nó thích hợp với điều kiện nước ta. Khổng Tử, Giê-su, Mác, Tôn Dật Tiên chẳng có những ưu điểm đó sao? Họ đều muốn mưu cầu hạnh phúc cho mọi người, mưu cầu phúc lợi cho xã hội...”(3). Những quan điểm trên là thái độ rất nghiêm túc của Đảng ta và của Chủ tịch Hồ Chí Minh đối với tôn giáo.

Về vai trò chính trị - xã hội, xét đến cùng thì tôn giáo, với nghĩa nguyên thuỷ của nó, là tập hợp những người cùng khổ, bị áp bức, bóc lột đứng lên chống lại các thế lực thống trị cường quyền. Tôn giáo là tập hợp những sinh linh nhỏ bé tội nghiệp dựa vào nhau để chống chọi với những đe doạ của thiên nhiên và những nỗi thống khổ trong xã hội có áp bức, bóc lột. Các chức sắc tôn giáo chân chính là những người chỉ dẫn cho nhân dân đi tìm sự giải thoát. “Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng”, đó là quan điểm của Chủ nghĩa Mác - Lê-nin. Quần chúng tín đồ tôn giáo cũng là một bộ phận trong nhân dân, một lực lượng cách mạng to lớn. Trong lịch sử, quần chúng tôn giáo đã tích cực tham gia nhiều cuộc cách mạng vĩ đại góp phần to lớn làm thay đổi lịch sử và thúc đẩy xã hội loài người phát triển. Lịch sử đã chứng minh rằng: trong các cuộc cách mạng xã hội, ai giành được sự ủng hộ của đông đảo quần chúng (thậm chí trong một số trường hợp chỉ là quần chúng tôn giáo), người đó sẽ giành chiến thắng. Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, đồng bào có đạo luôn sát cánh cùng cả dân tộc ta làm nên những trang sử hào hùng của dân tộc Việt Nam. Người Việt Nam dù theo hay không theo tôn giáo nào cũng không bao giờ quên mình là “con cháu Rồng – Tiên” và sẵn sàng xả thân vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Trong cách mạng dân chủ nhân dân và kháng chiến chống đế quốc xâm lược, dưới sự lãnh đạo của Đảng, đồng bào có đạo đã chung lưng, đấu cật, không quản hy sinh, gian khổ đoàn kết một lòng, cùng cả dân tộc đấu tranh giành độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc. Họ tích cực tham gia chiến đấu, hy sinh trong chiến tranh giải phóng và xây dựng chủ nghĩa xã hội, bởi vì họ cũng là người Việt Nam và thấu hiểu chân lý “nước mất thì nhà tan” của ông cha.

Tất cả vì lợi ích quốc gia, dân tộc trong thời kỳ đổi mới

Đánh giá cao những đóng góp của cộng đồng các tôn giáo trong lịch sử và vai trò, vị trí của tôn giáo, tín ngưỡng trong thời kỳ mới, Đảng ta khẳng định:Tín ngưỡng, tôn giáo là nhu cầu của một bộ phận nhân dân, đang và sẽ tồn tại cùng dân tộc trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta” (4). Trong khi đó, đồng bào theo đạo và các nhà tu hành chân chính cũng luôn nhận thức rằng, tôn giáo chỉ tồn tại và phát triển được khi dân tộc độc lập, quốc gia được thống nhất, đất nước ổn định và phát triển phồn vinh. Đồng bào theo đạo đang đoàn kết cùng cả dân tộc thi đua trên mọi lĩnh vực của cuộc sống và trên mọi nẻo đường của đất nước, thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Dưới ánh sáng đường lối đổi mới của Đảng, các tôn giáo được tự do hoạt động và có nhiều phát triển mới, được đồng bào theo đạo và cộng đồng quốc tế thừa nhận.

Các tôn giáo tiếp tục được phát triển tổ chức, chức sắc và tín đồ cả về số lượng và chất lượng. Đến nay, đạo Phật có gần 10 triệu tín đồ, trên 33.000 tăng ni; Công giáo có gần 6 triệu tín đồ, 3 tổng giáo phận, 25 địa phận, trên 2000 giáo xứ, trên 6.000 nhà thờ và gần 15.000 giáo sỹ; các tôn giáo khác đều có sự tăng trưởng vượt bậc.

Các sinh hoạt tôn giáo được tôn trọng và diễn ra ngày càng trang nghiêm và được đảm bảo an ninh tối đa; nhiều cơ sở thờ tự được nâng cấp, cải tạo và xây mới. Chỉ tính riêng lĩnh vực đào tạo các chức sắc, Giáo hội Phật giáo Việt Nam hiện đã có 3 học viện Phật giáo, 30 trường trung cấp, gần 40 lớp sơ cấp; Giáo hội Công giáo có 6 đại chủng viện với trên 1.000 chủng sinh theo học; Viện Thánh kinh thần học của đạo Tin Lành ở Thành phố Hồ Chí Minh đã đào tạo, bồi dưỡng giáo lý cho gần 300 mục sư truyền đạo; đã có trên 2.500 chức việc, chức sắc Đạo Cao Đài được đào tạo, bồi dưỡng giáo lý…

Các tôn giáo được tự do mở rộng hợp tác quốc tế, tăng cường giao lưu, học hỏi kinh nghiệm và góp phần vào sự giao lưu văn hoá, hiểu biết lẫn nhau giữa các dân tộc, động viên bà con Việt kiều về xây dựng quê hương, đất nước. Các tôn giáo của Việt Nam đã mở rộng quan hệ thân hữu với nhiều tổ chức tôn giáo các nước trong khu vực Đông Nam Á, Tây Âu, Mỹ, Ca-na-đa…; tham dự nhiều cuộc hội thảo quốc tế, làm việc, thăm viếng và trao đổi kinh nghiệm hoạt động tôn giáo với các tổ chức tôn giáo quốc tế… Quan hệ đối ngoại của các tôn giáo đã góp phần giúp quốc tế hiểu rõ hơn quan điểm, chính sách tự do tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam, và sự thật về sinh hoạt tôn giáo ở Việt Nam.

Ngoài ra, trong thời gian vừa qua, cộng đồng các tôn giáo đã có những đóng góp to lớn, chung vai gánh vác những công việc của xã hội, đặc biệt là công tác từ thiện nhân đạo giúp đỡ những hoàn cảnh khó khăn, tham gia xoá đói nghèo, chia sẻ nỗi đau khổ, mất mát của đồng bào bị thiên tai, tai nạn rủi ro… Cả nước đã có trên 2.000 cơ sở hoạt động từ thiện của tôn giáo (đạo Phật có 1.076 cơ sở, Thiên chúa giáo có 1.007 cơ sở…) bao gồm các lĩnh vực khám, chữa bệnh cho người nghèo, nhà trẻ, mẫu giáo, lớp học tình thương… Đó là những đóng góp đáng được ghi nhận.

Đảng và Nhà nước đang tập trung chỉ đạo các cấp, các ngành đẩy mạnh toàn diện các biện pháp chính trị, kinh tế, văn hoá - xã hội nhằm không ngừng nâng cao đời sống tinh thần và vật chất của đồng bào có đạo và tạo mọi điều kiện để các tôn giáo hoạt động tự do trong khuôn khổ pháp luật, phù hợp với điều kiện của nước nhà, đi lên theo nhịp độ phát triển chung của cả dân tộc. Đảng và Nhà nước luôn luôn mong muốn và đảm bảo rằng, mọi người dân Việt Nam trên khắp miền đất nước, không kể thành phần, tôn giáo, tín ngưỡng đều được chung hưởng thành quả của công cuộc đổi mới.

Để tạo điều kiện cho các tôn giáo chấn hưng, hoạt động trong khuôn khổ pháp luật, luôn đồng hành và phục vụ lợi ích tối cao của dân tộc trong điều kiện nước ta hội nhập ngày càng sâu vào đời sống quốc tế, các cấp, các ngành cần thực hiện có hiệu quả những nội dung công tác sau:

Một là, tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức trong cán bộ, đảng viên về tôn giáo, chống cách nhìn nhận lệch lạc về tôn giáo. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động các chức sắc tôn giáo, đồng bào theo đạo và các tầng lớp nhân dân nắm và hiểu đúng, đầy đủ quan điểm, đường lối, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước về tôn giáo; nâng cao cảnh giác trước âm mưu, phương thức, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch; động viên bà con theo đạo yên tâm sống “tốt đời, đẹp đạo”, cùng cả dân tộc dốc lòng thực hiện mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội, công bằng, dân chủ, văn minh”.

Hai là, tăng cường hiệu lực quản lý nhà nước về tôn giáo; tiếp tục nghiên cứu sửa đổi, bổ sung hệ thống chính sách, pháp luật về tôn giáo, tạo điều kiện để các tôn giáo hoạt động đúng với mục đích tôn giáo, tôn trọng và chấp hành pháp luật; nâng cao năng lực cán bộ quản lý nhà nước về tôn giáo và cán bộ dân vận, nhất là nâng cao kiến thức về tôn giáo, trình độ xử lý các tình huống, kinh nghiệm vận động quần chúng.

Ba là, quan tâm phát triển kinh tế - xã hội, nhất là phát triển kết cấu hạ tầng, xoá đói, giảm nghèo, giải quyết việc làm, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân ở các địa bàn có đông người theo đạo, vùng có đông người dân tộc thiểu số, vùng núi, biên giới và các xã, thôn, bản, ấp, phum, sóc đặc biệt khó khăn.

Bốn là, tập trung giải quyết, xử lý dứt điểm các vụ việc khiếu kiện có liên quan đến tôn giáo, không để dây dưa, kéo dài dẫn đến khiếu kiện tập thể có thể gây ra các hậu quả không tốt về chính trị - xã hội. Điều tra, xử lý nghiêm minh những tổ chức, cá nhân lợi dụng chức quyền, cố tình vi phạm đường lối, chính sách về tôn giáo, có hành vi xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của các tổ chức, cá nhân chức sắc tôn giáo và tín đồ theo đạo làm suy giảm lòng tin vào Đảng, Nhà nước.

Năm là, các cơ quan chức năng đẩy mạnh công tác đấu tranh chống hoạt động lợi dụng tôn giáo, dân tộc, nhân quyền chống Đảng và Nhà nước và ngăn chặn, xử lý nghiêm minh trước pháp luật các tổ chức tà đạo, các hành vi truyền đạo trái phép hoặc lợi dụng tôn giáo để hoạt động chống phá, đi ngược lại lợi ích, quốc gia, dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Kiên quyết đập tan mọi âm mưu xuyên tạc sự thật về tự do tôn giáo ở Việt Nam, lợi dụng vấn đề tôn giáo để phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, kích động gây rối an ninh, can thiệp vào công vệc nội bộ của nước ta, xâm phạm chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội của các thế lực thù địch.

Sáu là, tăng cường hợp tác quốc tế, mở rộng các hoạt động đối thoại, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa Nhà nước Việt Nam và các tổ chức tôn giáo quốc tế, các quốc gia và các tổ chức quốc tế có quan tâm đến tôn giáo, dân chủ, nhân quyền ở Việt Nam; cùng nhau giải quyết những bất đồng trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, vì sự phát triển tự do tôn giáo, lợi ích của mỗi bên và hoà bình, an ninh thế giới.

Dù ở đâu đó vẫn còn những tiếng nói lạc lõng, xấu xa, cố tình xuyên tạc sự thật về sinh hoạt tôn giáo ở Việt Nam, nhưng đông đảo đồng bào có đạo và các vị chức sắc tôn giáo chân chính vẫn vững tin vào tương lai, chấn hưng đạo trong sự nghiệp đổi mới của đất nước. Tôn giáo cần luôn luôn đồng hành cùng dân tộc và vì dân tộc./.



1 Phạm Văn Đồng: Văn hoá và Đổi mới. Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, năm 1998 Tr. 75
2 Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành trung ương Đảng khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, Tr45-46
3 Trắng đen đã rõ. Nxb Sự Thật, 1952, Tr.25-26
4 Văn kiện Hội nghị lần thứ 7 Ban chấp hành Trung ương khoá IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2003, tr 48.